Lễ hội trò trám là sự tôn vinh sức sống của con người. Ðó là lễ hội sinh tồn, có yếu tố "nõ nường" và giống nòi và vật linh này được tôn thờ là vật báu.
Người dân Tứ Xã làm hai vật "nõ nường" bằng gỗ mít. Hai "vật quý" được đặt trong miếu thờ ở gò trám. Miếu rộng chừng 35 m2, cao chừng 4 m, nền miếu cao so với mặt bằng chừng 40 - 50 cm, "nõ nường" được đặt trong hòm nhỏ, hòm nhỏ đặt trong hòm to. Tất cả các hòm và cửa ra vào đều có khóa. Chìa khóa do ông Từ coi giữ. Miếu thờ được dựng giữa một khoảnh đất 1.800 m2, phía sau, hai bên có cây sanh, có si, tre là ngà và cả cây đa trùm bóng mát rượi. Sự giữ gìn tôn nghiêm, cẩn thận chứng tỏ người Tứ Xã coi trọng sự sinh tồn đến mức nào.
Năm nào cũng vậy, vào đêm 11 tháng giêng, cánh cửa miếu mở ra hai "nõ nường" được người ta đưa lên sập thờ, có ván xôi con gà, hoa quả, hương khói. Ông Từ cầu khấn cho mùa màng tốt tươi, mưa thuận gió hòa, con người khỏe mạnh, sinh lực dồi dào, đất nước phát triển, dân giàu nước mạnh, nòi giống cường thịnh, làng xóm đông vui sầm uất, gia đình hạnh phúc, con đàn cháu đống. Buổi lễ diễn ra trước sự chứng kiến của hàng trăm người dân, già có, trẻ có trong những bộ lễ phục.
Khoảnh khắc linh thiêng và tế nhị nhất là gần đến giờ chuyển tiếp sang ngày hôm sau. "Lễ mật" diễn ra trong sự hoan hỉ của mọi người. Một thanh niên trai tráng cầm "nõ", một cô gái duyên dáng cầm "nường". Trong tiếng hò reo "Linh tinh, tình phục", cái "nõ" đâm vào cái "nường". Sau ba lần "Linh tinh, tình phục" như thế, lễ mật kết thúc, mọi người vui vẻ ra về. Và đêm ấy là đêm của tình yêu. Thanh niên, nam nữ được tự do tâm tình, cởi mở tấm lòng.
Những trăn trở của người già gặp lại nhau để nhớ lại một thời gắn bó đã phôi pha bởi lễ giáo phong kiến đã không cho họ thành vợ chồng và giờ đây là lúc để họ nhớ lại một thời thanh xuân, một thời trai tráng, xuân sắc.
Hôm sau là ngày hội "Tứ dân chí nghiệp" mà người Tứ Xã gọi nôm na là "sĩ, nông, công, thương".
Thông qua các trò diễn say đắm và sảng khoái lòng người, trò diễn "sĩ, nông, công, thương" như nhắc nhở mỗi làng quê, phải coi bốn nghề ấy làm gốc; mỗi người, mỗi nhà hãy chọn lấy một nghề để tạo dựng một cuộc sống vững bền. "Có một nghề còn hơn cả một vương quốc" chính là vậy. Nhưng cái lạ, cái mới đượm chất dân gian sâu lắng, thấm đậm tình người là trò diễn ấy được cách điệu hóa, mang đậm bảnsắc làng quê, khôi hài đến chảy nước mắt. Bởi vậy lại có tên là "bách nghệ khôi hài".
Trò diễn gồm 12 tiết mục diễn tả các hoạt động cày, cấy, thợ mộc, đánh lờ, câu cá, kéo sợi, dệt vải, thầy trò, mua xuân, bán xuân hay gọi là buôn bán... tất cả đều nhân cách hóa và đối đáp bằng ngôn ngữ dân ca.
Người mở đầu dùng chiếc nơm đơm cá thay cho loa để mời gọi dân làng. Người giới thiệu lại mang bốn cái mẹt, mỗi cái mẹt mang một chữ "sĩ", "nông", "công", "thương". Nhạc đệm là cối xay, dây đàn bằng chạc, miệng hát "phừng, phừng, phừng...".
Ở đây không phải là con trâu đi cày mà là con voi, được phủ chăn xanh, chân nẹp viền đỏ trông thật ngộ nghĩnh. Cô đi cấy thì mặc váy ngắn nhún nhẩy gánh mấy đon mạ. Cô mua xuân, bán xuân có đòn gánh lả lướt như cò lả. Trong lờ của người đánh cá lủng lẳng mấy con bấc trông thật ngộ nghĩnh. Còn vai diễn "sĩ" thì thầy đồ mặc quần trắng, áo the giày vải thong dong đi lại bên cạnh cậu học trò nghịch ngợm.
Lời ca, tiếng hát trong các trò diễn thắm đậm tình yêu, tình người, lại mang tính khôi hài... Người đánh đàn giằng xay, vai giáo đầu, sau khi lên dây đàn "kít", "két", "phưng", "phưng", "phưng" hát. Mở đầu bằng một câu rất quậy:
Bên ấy có nửa vừng trăng
Bên này lủng lẳng như giằng cối xay.
Cô gái trong các trò diễn cũng không kém phần lém lỉnh:
Gặp đây em mới hỏi chàng
Cái gì lủng lẳng một gang trong quần.
Chàng trai đáp:
Em hỏi thì anh thưa rằng
Cái đeo lủng lẳng là giằng cối xay.
Cô thợ cấy ca rằng:
Người ta đi cấy lấy công
Tôi nay đi cấy lấy ông chủ nhà.
Vai nào cũng đạt nghệ thuật diễn xuất cao và gây cười khác nhau.
Anh vác lờ đi bắt cá được tặng câu:
Công anh đắp đập be bờ
Ðừng cho người khác vác lờ đến đơm.
Anh đi câu, quẳng lưới câu vào các cô đi cấy và ca:
Người ta câu diếc câu rô
Tôi nay câu lấy một cô không chồng.
Rồi hát tiếp:
Có chồng thì thả mồi ra
Không chồng thì cặp, thì tha lấy mồi.
Ðến cô mua xuân, bán xuân (làm thương nghiệp): "Kể từ đấu cám, xâu cua,
ai thiếu em bán, ai thừa
em mua" cũng lo cho tình xuân:
Mua xuân kẻo hết xuân đi
Nay lần, mai lữa còn gì là xuân.
Trò diễn thầy đồ và học trò cũng vang mãi tiếng cười sâu lắng và khôi hài về dạy và học.
Thầy dạy:
Chữ trên là trên chữ dưới
Chữ dưới nằm dưới chữ trên
Chữ giữa là giữa xung quanh
Xung quanh là vành chữ giữa
Rồi thầy nói:
- Các con học thuộc chữ nào thì trả lại cho thầy chữ ấy để thầy còn đi dạy người khác.
Thế là chữ thầy trả lại cho thầy.
Trò Trám, trong đó có "Bách nghệ khôi hài" là một lễ hội dân gian đặc sắc, tôn vinh giống nòi và sinh khí con người; nó được đan chéo bởi hàng trăm câu thơ mộc mạc trong sáng, giản dị và khôi hài. Nghệ nhân biểu diễn là những người am hiểu cuộc sống, tế nhị và dí dỏm. Mỗi vai diễn có phong cách riêng, cử chỉ và lời ca thu hút lòng người.
Trò Trám hằng năm được trình diễn tại lễ hội Ðền Hùng và được một tổ chức quốc tế tài trợ về tài chính để tôn tạo lại miếu thờ, mua sắm trang thiết bị phục vụ cho trình diễn.