Sự kiện có sự tham gia của các chuyên gia, khách mời trao đổi về hai đề án: “Hỗ trợ phát triển thị trường lao động đến năm 2030” và “Nâng cao năng lực dự báo cung - cầu lao động” đang được Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội xây dựng dự thảo.
Những năm qua, thị trường lao động trong nước đã có những bước phát triển đáng ghi nhận, công tác dự báo cũng được nâng cao. Tuy nhiên, các đánh giá khoa học đã chỉ ra những hạn chế cản trở sự phát triển của thị trường này. Đó là thị trường lao động thiếu sự liên thông, chất lượng thông tin về lao động và việc làm chưa cao, thiếu kết nối, hoặc đứt gãy... Kết quả dự báo cung - cầu lao động chưa đáp ứng yêu cầu của người dùng cả về thông tin, như chưa chỉ ra cụ thể nhu cầu tuyển lao động theo nghề, theo kỹ năng, trình độ; chưa kịp thời dự báo tác động của cách mạng công nghiệp 4.0 tới cung - cầu lao động Việt Nam…
Các chuyên gia, khách mời tham gia tọa đàm trực tuyến của Báo Nhân Dân điện tử có: TS Bùi Sỹ Lợi, Phó Chủ nhiệm thường trực Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội; TS Vũ Trọng Bình, Cục trưởng Cục Việc làm (Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội); TS Nguyễn Xuân Hải, Cục Việc làm (Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội); TS Ngô Quỳnh An, Phó Trưởng Khoa Kinh tế và Quản lý nguồn nhân lực (Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội); ông Vũ Quang Thành, Phó Giám đốc Trung tâm Dịch vụ việc làm Hà Nội; ông Nguyễn Trọng Hưng, Phó Phòng Hành chính nhân sự, Công ty CP Mediamart Việt Nam.
Bạn đọc quan tâm về chủ đề này, có thể gửi câu hỏi trực tiếp cho chương trình qua email nhandandientutiengviet@gmail.com, hoặc tại Fanpage của Báo Nhân Dân điện tử Tiếng Việt https://www.facebook.com/nhandandientutiengviet.
Cuộc tọa đàm được tường thuật trực tiếp trên Báo Nhân Dân điện tử.
09:35
Phát biểu của đồng chí Nguyễn Ngọc Thanh, Vụ Trưởng, Trưởng Ban Nhân Dân điện tử
Kính thưa quý vị đại biểu, cùng các đồng nghiệp,
Thay mặt Ban Nhân Dân điện tử, Báo Nhân Dân, tôi xin trân trọng cảm ơn các quý vị khách mời và các đồng nghiệp tham dự chương trình hôm nay.
Kính thưa quý vị,
Để đưa đất nước bước vào một giai đoạn phát triển mới, Đảng ta đã xác định các mục tiêu cụ thể hướng tới những dấu mốc phát triển quan trọng của đất nước ta, đó là:
Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao.
Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
Để đạt được các khát vọng này, những yêu cầu về nguồn nhân lực, lao động và việc làm luôn được đặt lên hàng đầu. Tại các văn kiện của Đảng đều đặt ra yêu cầu phát triển thị trường lao động trong tình hình mới: Tập trung hoàn thiện và nâng cao chất lượng hệ thống thông tin dự báo thị trường lao động và chất lượng dịch vụ việc làm. Hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển đồng bộ, liên thông thị trường lao động cả về quy mô, chất lượng lao động và cơ cấu ngành nghề. Xây dựng cơ chế, chính sách để định hướng dịch chuyển lao động thông thoáng, phân bố hợp lý lao động theo vùng. Đổi mới chế độ tuyển dụng, sử dụng, trọng dụng nhân tài trong quản lý, quản trị nhà nước, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ…
Kính thưa quý vị,
Nền kinh tế nước ta đã hội nhập sâu với thế giới. Nhiều nước phát triển từ lâu đã có được những thị trường lao động hoàn chỉnh và hiện đại. Công tác dự báo thị trường lao động được coi trọng trong việc xây dựng, hoạch định chính sách phát triển thị trường lao động, là cơ sở để xây dựng chiến lược phát triển quốc gia. Đồng thời, cung cấp cho các nhà sử dụng lao động, nhân viên và sinh viên những thông tin cần thiết để đưa ra lựa chọn sẽ tối ưu hóa sự đóng góp của giáo dục vào tăng trưởng kinh tế và sự vận hành trơn tru của thị trường lao động.
Ở Việt Nam ta, những năm qua, thị trường lao động đã có những bước phát triển đáng ghi nhận, công tác dự báo cũng được nâng cao. Tuy nhiên, các đánh giá khoa học đã chỉ ra những hạn chế cản trở sự phát triển của thị trường này. Đó là thị trường lao động thiếu sự liên thông, do chất lượng thông tin về lao động và việc làm chưa cao, thiếu kết nối, hoặc đứt gãy… Kết quả dự báo cung - cầu lao động chưa đáp ứng yêu cầu của người dùng cả về thông tin, như chưa chỉ ra cụ thể nhu cầu tuyển lao động theo nghề, theo kỹ năng, trình độ; chưa kịp thời dự báo tác động của cách mạng công nghiệp 4.0 tới cung - cầu lao động Việt Nam…
Chính vì vậy, chúng tôi rất mong các quý vị đại biểu là các nhà quản lý, đại biểu Quốc hội, chuyên gia và doanh nghiệp cùng nhau trao đổi thẳng thắn để góp ý, đề xuất cho Đảng và Nhà nước các chính sách, giải pháp phát triển thị trường lao động hiện đại, bền vững.
Một lần nữa, thay mặt Ban Nhân Dân điện tử, tôi xin cảm ơn các vị khách mời, các đồng nghiệp đã tham gia buổi tọa đàm trực tuyến hôm nay.
Xin chúc quý vị sức khỏe và chúc buổi tọa đàm hôm nay thành công tốt đẹp!
09:40
Hỏi: Thưa TS Vũ Trọng Bình, Cục trưởng Cục Việc làm, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đang xây dựng hai Đề án “Hỗ trợ phát triển thị trường lao động đến năm 2030” và Đề án “Nâng cao năng lực dự báo cung-cầu lao động”. Xin ông cho biết về những nội dung và mục tiêu chính của hai đề án? Các đề án này này có ý nghĩa như thế nào trong bối cảnh của thị trường lao động Việt Nam trong giai đoạn sắp tới?
TS Vũ Trọng Bình, Cục trưởng Cục Việc làm:
Việc xây dựng hai đề án này là hết sức quan trọng để góp phần cụ thể hóa Nghị quyết TƯ 5 khóa XII về thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, hướng tới xây dựng một thị trường lao động định hướng XHCN. Chúng ta biết là Nghị quyết TƯ 5 khóa XII về thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN thì hợp phần quan trọng là xây dựng thể chế về thị trường lao động định hướng XHCN là một trong ba đột phá chiến lược mà Đảng và Nhà nước xác định.
Thứ hai, sau hơn 30 năm Đổi mới, chúng ta đã xây dựng từng bước và căn bản những thể chế cơ bản của thị trường lao động định hướng XHCN. Để thực hiện chiến lược này, trong thời gian tới cần có những khuôn khổ về thể chế chính sách mới, cho nên phải đánh giá lại xem trong 30 năm chúng ta đã làm được gì, đặc biệt là trong 10 năm trở lại đây.
Hai đề án này hết sức quan trọng, ngoài việc cụ thể hóa Nghị quyết của Đảng về kinh tế thị trường XHCN, còn góp phần định hình hành lang pháp lý để phát triển các thể chế thị trường của thị trường lao động. Thí dụ, 10 năm qua, thị trường lao động của chúng ta quy mô còn nhỏ, các thể chế thị trường lao động mới được thiết lập có hành lang pháp lý như Trung tâm dịch vụ việc làm, doanh nghiệp dịch vụ việc làm và các sàn giao dịch việc làm. Để bảo đảm những thể chế này hoạt động đồng bộ, hiện đại đúng như tinh thần của Nghị quyết TƯ 5 khóa XII về thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, bắt buộc chúng ta phải có những hành lang pháp lý cho những thể chế này thực sự phát triển.
Câu hỏi đặt ra là đề án này phải giải quyết được vấn đề thực tiễn. 10 năm qua, thị trường lao động VIệt Nam không những phát triển rất mạnh trong nước, thể hiện ở chỗ có những vùng thị trường lao động biến động, phát triển kết nối mạnh mẽ với thị trường lao động quốc tế, như Đông Nam Bộ hay đồng bằng sông Hồng. Chúng ta có những thị trường lao động chuyên biệt, kết nối với chuỗi giá trị toàn cầu rất mạnh, đặc biệt là nông nghiệp, thủy sản, như thị trường đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) và Tây Nguyên. Đối với miền núi, chúng ta phải có thị trường riêng để vừa bảo đảm phát triển hài hòa với trình độ phát triển của miền núi, nhưng cũng đúng với việc phát huy những ưu tiên của Đảng, Nhà nước đối với chính sách miền núi và chính sách dân tộc. Đề án này phải giải quyết được những điểm căn bản đó.
Chính vì vậy, đề án phải bảo đảm phủ sóng được những thị trường khác nhau, phù hợp với thực tiễn. Cho nên chúng tôi mới gọi là đa tầng, mỗi tầng có một trình độ phát triển khác nhau. Mỗi tầng cụ thể hóa quan điểm của Đảng là vai trò của Nhà nước và thị trường phải được xác định rất rõ. Nhà nước và thị trường quan hệ như thế nào ở trong thị trường ở vùng miền núi phía bắc, đồng bằng sông Hồng và ở vùng Đông Nam Bộ rất khác nhau. Nếu như ở Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Hồng thì vai trò của Nhà nước có tính chất kiến tạo nhiều hơn, hỗ trợ nhiều hơn. Ở vùng miền núi thì Nhà nước có tính chất thu hút, thậm chí có những nơi Nhà nước phải tạo những cơ chế để đưa cho người lao động tham gia vào thị trường.
Đa lĩnh vực có nghĩa là thị trường có nhiều lĩnh vực, nhiều ngành. Với những lĩnh vực mà chuỗi giá trị kết nối chặt chẽ với chuỗi giá trị của thế giới, ở đây phải có những thị trường chuyên nghiệp và tuân theo luật chơi quốc tế hết sức chặt chẽ. Thí dụ, nếu lao động tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu, người lao động phải đạt tiêu chí, kể cả việc sử dụng người lao động cũng phải đúng theo chuẩn mực quốc tế.
Vấn đề nữa, đề án phải bảo đảm có những chính sách thu hút các chuyên gia giỏi quốc tế và trong nước để hài hòa giữa lao động trong nước và quốc tế.
Một điều chúng tôi rất muốn giải quyết trong đề án này, là chúng ta nhìn lao động - việc làm nhiều năm nay rất quan trọng. Nhưng chúng ta lại nhìn nhiều hơn ở góc độ an sinh xã hội. Trong khi đó, lao động là một yếu tố của tăng trưởng kinh tế, từ trước đến nay vẫn thế. Nhưng đôi khi chúng ta chưa nhìn đúng tầm lao động theo góc độ tăng trưởng kinh tế. Vấn đề này phải được giải quyết từ lý luận, thực tiễn và thể chế để tạo ra được định hướng trong thời gian sắp tới.
09:45
Hỏi: Mục tiêu của đề án “Hỗ trợ phát triển thị trường lao động” là phát triển thị trường lao động theo hướng hiện đại, hiệu quả phù hợp với đặc điểm của từng thị trường khu vực, từng tỉnh, từng ngành, nghề và từng bước đồng bộ, liên thông với các thị trường khác để làm cơ sở, động lực phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Điều này có giá trị thế nào với thị trường lao động Việt Nam trong giai đoạn hội nhập sâu rộng như hiện nay?
TS Bùi Sỹ Lợi, Phó Chủ nhiệm Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội:
Với tư cách là cơ quan giám sát, theo dõi và là người nghiên cứu sâu lĩnh vực này, tôi đánh giá cao Cục Việc làm (Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội) đã nghiên cứu đề án. Đây là định hướng đúng và thực chất, vì giải quyết việc làm là mục tiêu của an sinh xã hội, là trụ cột có tính chất phòng ngừa bảo đảm cho người việc làm có thu nhập, giải quyết đời sống cho người lao động.
Tuy nhiên, khi nghiên cứu đề án này phải xử lý hai vấn đề:
Một là, chúng ta phải khắc phục cho được tồn tại hiện nay đang đặt ra đối với Chính phủ về giải quyết việc làm cho người lao động. Đây là một trong những yếu tố quan trọng của năng suất lao động và tăng trưởng kinh tế. Hiện nay, nguồn chất lượng nhân lực của chúng ta còn thấp, quan hệ cung - cầu đang có vấn đề. Cung chưa đáp ứng cầu sử dụng và dịch chuyển quá trình lao động chưa phù hợp với quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế. Bên cạnh đó, thị trường lao động là một thị trường chịu tác động của nhiều yếu tố, chưa giải quyết đáp ứng được hiện tại.
Hai là, đề án phải giải quyết hai nhiệm vụ:
Nhiệm vụ đầu tiên là xây dựng cho được một thị trường lao động ổn định, hài hòa và hiện đại.
Tính hiện đại ở đây phải bảo đảm mấy yếu tố: thể hiện thể chế về cơ chế chính sách về thị trường lao động; Đáp ứng được nhu cầu chất lượng nguồn nhân lực tăng lên; Đáp ứng quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động giữa các ngành, các lĩnh vực trong nước trong quá trình hội nhập; Chuyển dịch cơ cấu lao động đáp ứng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phù hợp quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của đất nước.
Nhiệm vụ thứ hai, đề án phải giải quyết được chất lượng thị trường lao động, bởi vì chất lượng thị lao động giải quyết việc làm bền vững. Theo đó, để giải quyết việc làm bền vững đáp ứng mấy vấn đề: Đáp ứng việc làm theo quyền của con người theo quy định Hiến pháp như học nghề, tự tạo việc làm, tự chọn nơi làm việc (theo Điều 25 của Hiến pháp); Bảo đảm có thu nhập hợp lý, có chính sách bảo hiểm như bảo hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm y tế (BHYT), bảo hiểm các chức năng sau này khi người lao động rời khỏi thị trường lao động vẫn có thể tồn tại; Bảo đảm an toàn lao động, an toàn sinh mạng, vệ sinh môi trường trong quá trình làm việc.
Đề án cũng phải tránh được người lao động rơi vào cảnh thất nghiệp. Vì thế, chúng ta phải nghĩ đến việc đào tạo, đào tạo lại nhằm giữ chỗ cho người lao động để khi chuyển đổi cơ cấu, công nghệ dưới tác động cách mạng công nghiệp 4.0, người lao động vẫn có cơ hội tìm công việc khác. Ngoài ra, còn có một số yếu tố nữa để giải quyết vấn đề việc làm bền vững.
Chúng ta đừng coi thị trường lao động như vấn đề xã hội. Đây là vấn đề kinh tế. Chúng ta phải đầu tư xử lý việc làm cho người lao động trên cơ sở phát triển thị trường lao động.
10:02
Hỏi: Xin hỏi ông Vũ Quang Thành, Phó Giám đốc TT Dịch vụ việc làm Hà Nội: Năm 2020, thị trường lao động bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch Covid-19, vậy Trung tâm Dịch vụ việc làm Hà Nội đã triển khai các giải pháp nào để hỗ trợ thị trường lao động, đặc biệt là việc cung cấp, kết nối thông tin thị trường lao động trên địa bàn Thủ đô trong bối cảnh đại dịch?
Ông Vũ Quang Thành, Phó Giám đốc TT Dịch vụ việc làm Hà Nội:
Như chúng ta đã biết, trong năm 2020, đại dịch Covid-19 đã ảnh hưởng chung đến tất cả lĩnh vực bao gồm: Đời sống, xã hội, kinh tế, du lịch… Đặc biệt thị trường lao động TP Hà Nội nói riêng, cả nước nói chung đều bị ảnh hưởng. Với vai trò của TT Dịch vụ việc làm Hà Nội, về hoạt động tư vấn, giới thiệu việc làm, cung cấp thông tin thị trường lao động, kết nối cung-cầu thực hiện các hoạt động chính sách bảo hiểm thất nghiệp, trong thời gian qua, chúng tôi đã thực hiện một số hoạt động cụ thể:
Giai đoạn từ tháng 2 đến 5-2020, chúng tôi đã thực hiện nghiêm các chỉ đạo của Chính phủ, từ Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội… dừng việc tổ chức các phiên giao dịch việc làm hằng ngày, từ thứ hai đến thứ sáu; đồng bộ hơn 15 đầu điểm sản đặt trên 15 quận, huyện thuộc địa bàn thành phố… để chuyển hướng sang cung cấp thông tin thị trường lao động.
Để làm được việc đó, theo sự chỉ đạo của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, chúng tôi đã chủ động tiến hành công tác thu thập về phía doanh nghiệp (DN) và nhu cầu tìm kiếm việc làm của người lao động. Sau đó, tiến hành kết nối sơ bộ, định hướng, đưa ra danh sách những ứng viên phù hợp để gửi lại DN, cũng như để người lao động chủ động kết nối với DN. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng hỗ trợ công tác hoạt động trực tuyến, như: Phỏng vấn online, trao đổi công việc qua trực tuyến… Điều đó được DN và người lao động đánh giá rất tốt.
Thứ hai, trong giai đoạn từ 1-6-2020, chúng tôi tiếp tục tham mưu cho Sở Lao động - Thương binh và Xã hội trình thành phố tổ chức phiên giao dịch lao động hằng ngày. Quy mô hạn chế và vẫn bảo đảm phòng, chống dịch Covid-19.
Ngoài ra, qua việc nghiên cứu qua công tác nắm bắt, phân tích thị trường, chúng tôi tổ chức phiên giao dịch việc làm chuyên đề, lưu động. Các phiên giao dịch lưu động tại địa bàn các quận, huyện có sự ảnh hưởng của Covid-19 đang có dấu hiệu phục hồi.
Tính đến thời điểm này, chúng tôi tổ chức hơn 150 phiên giao dịch. Kết quả, có gần 15.000 lao động được tuyển dụng trực tiếp thông qua các hoạt động này; hơn 6.000 DN tham gia phiên giao dịch.
10:09
Hỏi: Thưa TS Ngô Quỳnh An, ĐH Kinh tế Quốc dân, theo bà, những mục tiêu và nội dung của hai đề án “Hỗ trợ phát triển thị trường lao động đến năm 2030” và Đề án “Nâng cao năng lực dự báo cung-cầu lao động” cần lưu ý những vấn đề gì?
TS Ngô Quỳnh An:
Chúng tôi nhìn nhận các đề án này với tư cách các nhà nghiên cứu học thuật.
Thị trường lao động ở các nước phát triển nói chung và Việt Nam nói chung là thị trường phân đoạn, không đồng nhất.
Các chính sách và đề án phát triển cần phải đề cập đến sự phân đoạn này. Bản chất của việc làm trên thị trường lao động Việt Nam hiện nay mang tính chất mưu sinh là chủ yếu, không phải việc làm hướng tới tăng trưởng kinh tế bền vững hay tăng trưởng xanh. Vì vậy khoảng cách giữa mục tiêu đặt ra là việc làm hướng tới tăng trưởng kinh tế bền vững, phát triển kinh tế xã hội bền vững là khoảng cách khá xa. Do đó, cần có lộ trình cụ thể, không thể coi là một thị trường lao động đồng nhất giống như các nước phát triển.
Bên cạnh khu vực chính thức, còn tồn tại khu vực phi chính thức. Khu vực phi chính thức cung cấp công ăn việc làm, sinh kế cho nhiều người lao động và gia đình họ. Khu vực này dễ tham gia và không có rào cản, quy định về vốn và kỹ năng nên trong bất kỳ hoàn cảnh nào người lao động cũng tham gia được thị trường này và thị trường phi chính thức sẽ còn tồn tại lâu dài và phát triển.
Chúng ta cần từng bước nâng cao chất lượng của thị trường phi chính thức, giúp lao động có động lực để chuyển đổi sang thị trường chính thức.
Khu vực thị trường lao động có thể phân theo ngành nông nghiệp và phi nông nghiệp. Hiện có xu hướng chuyển dịch lao động ra khỏi thị trường nông nghiệp, cần lưu ý đến việc chuyển đổi ra khỏi nông nghiệp nhưng không ra khỏi nông thôn. Vì nếu vẫn để dòng di chuyển ra khỏi thành thị như hiện nay, nhìn chung sẽ làm tăng khu vực phi chính thức ở thành thị.
Việc di chuyển lao động tới khu công nghiệp lớn gây ra áp lực tới an sinh xã hội. Vấn đề chăm sóc sức khỏe, an toàn việc làm của người lao động. Thực tế, chúng tôi rất khó để tiếp cận với các lao động nữ trong các khu công nghiệp rất khó vì họ gần như bị tách biệt khỏi xã hội không được chăm sóc sức khỏe sinh sản, không có thông tin về hôn nhân… Nên khi hết tuổi, lao động trẻ, quay về quê thì có nhiều vấn đề cần giải quyết.
Hy vọng đề án này quy hoạch phát triển vùng như thế nào để rút lao động ra khỏi khu vực nông nghiệp nhưng không ra khỏi nông thôn và không dịch chuyển quá xa như hiện nay để gây ảnh hưởng tới cuộc sống và hệ lụy với người lao động.
Đề án cần xét tới lao động quốc tế. Có nhiều vấn đề cần đề cập tới nhà xuất khẩu lao động, lao động nhập cư tới Việt Nam phải kiểm soát ra sao.
Đề án về "Nâng cao năng lực dự báo cung-cầu lao động" trên thị trường lao động, tôi thấy là đề án cần thiết. Bên cạnh phương án dự báo truyền thống, nên đề cập tới Big Data để cập nhật thường xuyên dữ liệu về lao động và việc làm. Chúng ta cần có lộ trình phát triển Big Data.
Ông Bùi Sỹ Lợi:
Tôi rất đồng tình với ý kiến của TS Ngô Quỳnh An. Trong thị trường lao động hiện nay, vấn đề cần quan tâm là dịch chuyển của khu vực phi chính thức sang khu vực chính thức. Hiện nay có 56 triệu lao động, mới có 20 triệu lao động trong quan hệ lao động. Đây là số lao động có việc làm ổn định hơn và thu nhập tốt hơn, có sự bảo vệ tốt hơn, có BHXH và BHYT.
Còn lại 46 triệu lao động hoàn toàn không có ai bảo hộ trong khi chúng ta thực hiện Nghị quyết 28 của Ban chấp hành T.Ư về cải cách chính sách BHXH, thực hiện BHYT, BHXH toàn dân nhằm bảo vệ người lao động ở tất cả các khu vực tốt hơn.
Việc chuyển được lao động ở thị trường phi chính thức sang khu vực chính thức là nguyên lý của thị trường lao động. Mục tiêu là hướng đến điều này nhưng là quá trình dài. Cần phải có biện pháp để phát triển.
Về vấn đề giải quyết việc làm cho khu vực nông nghiệp, nông thôn và nông dân mà chị An nhắc tới, phải thực hiện nguyên lý “ly nông bất ly hương”. Đây là bài học của Trung Quốc trong nhiều năm. Tức là tách lao động khỏi nông nghiệp ngư nghiệp, lâm nghiệp nhưng không rời quê hương, không đặt gánh nặng lên các khu công nghiệp và đô thị.
Đây là hai yếu tố rất đáng lưu ý.
TS Vũ Trọng Bình:
Việc dịch chuyển lao động phi chính thức, hiện Bộ LĐTBXH đang làm việc với Ban Kinh tế T.Ư và Tổ chức Lao động quốc tế ILO để đánh giá, xây dựng chính sách về vấn đề này. Kể cả các nước phát triển cũng vẫn tồn tại vấn đề lao động phi chính thức.
Việc dịch chuyển phi chính thức sang chính thức phụ thuộc vào tính chuyên nghiệp của nền kinh tế.
Nền kinh tế càng chuyên nghiệp, tổ chức càng mạnh mẽ thì sự dịch chuyển này càng mạnh do sự dịch chuyển này đòi hỏi chi phí của thị trường lao động. Khi thị trường càng liên thông thì sự dịch chuyển càng nhanh. Ngược lại thị trường nhỏ lẻ thì sẽ đòi hỏi chi phí lớn.
Việc chuyển từ lao động phi chính thức sang chính thức thì chúng ta phải tính đến lĩnh vực để thúc đẩy chính thức hóa. Nếu tính toán không kỹ sẽ khiến chi phí thị trường tăng lên, làm cản trở hoạt động của chính công ăn việc làm.
Vấn đề nữa là quy hoạch dịch vụ phải gắn với quy hoạch đô thị. Tại Việt Nam đang có tình trạng quy hoạch chưa đồng bộ.
Trong quy hoạch kinh tế ta ít có quy hoạch xã hội gắn với quy hoạch đô thị.
Chúng tôi rất trăn trở để xây dựng một hệ thống an sinh xã hội cho thị trường lao động phi chính thức đơn giản và hiệu quả hơn để người lao động có giá đỡ.
10:15
Hỏi: Thực tế hiện nay nhiều người lao động chưa biết đến hoạt động của hệ thống Trung tâm Dịch vụ việc làm, trong đó có Trung tâm Dịch vụ việc làm Hà Nội. Vậy theo ông, dưới góc nhìn của đơn vị triển khai trong thực tế, cần có giải pháp gì để truyền thông tốt hơn về hoạt động của các trung tâm DVVL, nhằm đưa thông tin thị trường lao động tới người lao động cũng như doanh nghiệp?
Ông Vũ Quang Thành, Phó Giám đốc Trung tâm Dịch vụ việc làm Hà Nội:
Với vai trò đại diện cho Trung tâm Dịch vụ việc làm (TTDVVL) Hà Nội, tôi xin trân trọng cảm ơn ý kiến của ông Bùi Sỹ Lợi, ông Vũ Trọng Bình đã chia sẻ với những khó khăn của các TTDVVL làm nói chung trong đó có TTDVVL Hà Nội. Tôi rất mong, thời gian tới, cơ quan quản lý tiếp tục có định hướng, hỗ trợ trung tâm làm tốt hơn, thực hiện được vai trò cải thiện tốt hơn trong thị trường lao động.
TTDVVL Hà Nội được giao thực hiện tổ chức quản lý hoạt động sàn giao dịch Hà Nội từ 2007. Trong thời gian từ năm 2007 đến thời năm 2015, TTDVVL Hà Nội đã có sự chuyển mình với những hoạt động truyền thông của Trung tâm luôn kết hợp chặt chẽ với đơn vị có nhu cầu tuyển dụng thông qua triển khai các hoạt động truyền thông trên báo chí, truyền thanh, truyền hình bằng, băng rôn, phướn, khẩu hiệu… Chúng tôi có nhiều hình thức để người thông tin tới người lao động. Thời điểm đó, người lao động tham gia hoạt động giao dịch tại TTDVVL rất lớn, có thời điểm quá tải.
Những năm gần đây, TTDVVL Hà Nội tiếp tục thực hiện công tác truyền thông để đưa hình ảnh đơn vị cần tuyển dụng, hỗ trợ nguồn cung cầu đến doanh nghiệp, người lao động nhưng việc thu hút người lao động không đông bằng trước. Thực tế, khi các doanh nghiệp và người lao động có nhiều kênh thông tin hơn, tiếp cận qua các ứng dụng mạng xã hội thì việc tiếp cận hệ thống các TTDVVL có phần hạn chế hơn.
Trong thời gian tới, chúng tôi tiếp tục tích cực phối hợp đơn vị liên quan các cấp từ Trung ương đến địa phương, các hội đoàn thể thực hiện các nội dung truyền thông, tuyên truyền đến người doanh nghiệp, người dân.
Đồng thời, chúng tôi tiếp tục sử dụng trực tuyến, mạng xã hội như Zalo, Facebook để truyền thông, hướng đến các nội dung tuyên truyền để thông tin của đơn vị đến với doanh nghiệp và người lao động nhiều hơn. Chúng tôi tiếp tục mang nguồn thông tin đến tận nơi, tận cơ sở thì lực lượng lao động sẽ tham gia TTDVVL Hà Nội lớn hơn thời gian tới.
10:17
Hỏi: Thưa ông Nguyễn Trọng Hưng, Công ty CP MediaMart Việt Nam: Dưới góc nhìn của một doanh nghiệp, ông đánh giá như thế nào về hiệu quả của hệ thống thông tin thị trường lao động hiện nay? Cần làm gì để kết nối thông tin thị trường lao động hiệu quả hơn cho doanh nghiệp?
Ông Nguyễn Trọng Hưng: Dưới góc nhìn của một doanh nghiệp và của cá nhân, tôi thấy, hệ thống thông tin thị trường lao động hiện nay phát triển khá nhanh và khá năng động. Qua đó, hỗ trợ cho nhà tuyển dụng và người lao động rất nhiều.
Tuy nhiên, nó cũng bộc lộ một số nhược điểm mà các cơ quan hoạch định cần lưu ý:
Các kênh tuyển dụng tư vấn lao động truyền thống như hội chợ việc làm, sàn giao dịch việc làm thậm chí các trang tuyển dụng có uy tín: như Vietnamwork, 24h…giảm dần sức hút với người lao động. Các mạng xã hội như Zalo, Facebook phát triển khá mạnh mẽ.
Đối với Media Mart, trong giai đoạn 2011-2015: Sàn giao dịch việc làm và hội chợ việc làm luôn chiếm hơn 50% số lượng tuyển dụng, các kênh tuyển dụng chiếm 20-30%. Nhưng hiện tại, qua các kênh mạng xã hội như Zalo, Facebook... chúng tôi tuyển dụng khoảng 80% nhu cầu nhân lực của hệ thống. Tuy nhiên, kênh tuyển dụng này cũng bộc lộ rất nhiều nhược điểm: tự phát, thiếu định hướng.... trong việc nhìn nhận, đánh giá các lĩnh vực sử dụng lao động, gây tâm lý không tốt, mất phương hướng cho những người sắp bước vào thị trường lao động.
Vì vậy, tôi hy vọng, các cơ quan xây dựng đề án cũng cần có giải pháp để phát huy được mặt tích cực của các mạng xã hội trong kết nối thông tin thị trường lao động, hạn chế được các tiêu cực, và định hướng tốt hơn cho thông tin thị trường lao động.
TS Vũ Trọng Bình: Tôi xin nhấn mạnh thêm: “Giao dịch việc làm trực tuyến hiện nay đang ở xu thế chuyển dịch mạnh mẽ trên mạng xã hội. Vấn đề đặt ra hiện nay là xây dựng hệ thống quản trị của Nhà nước để quản lý, chứng nhận chất lượng về những sàn tuyển dụng lao động trực tuyến. Chúng ta có thể dùng quản trị nhà nước hiện đại trên nền tảng môi trường 4.0, kết hợp với dùng quản trị của thị trường thông qua thương hiệu, thông qua sự minh bạch.
Để làm được việc này, Cục Việc làm cũng đề xuất lên Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, lên Quốc hội để đưa ra những thể chế, bảo đảm cho phép giao dịch việc làm trực tuyến. Quan điểm của chúng tôi, nhà nước xây dựng thể chế, chính sách. Các doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp phải xây dựng thương hiệu, chứng nhận chất lượng trên không gian mạng khi muốn giao dịch việc làm.”
10:20
Hỏi: Thưa TS Bùi Sỹ Lợi, nhân sự làm công tác dự báo nói chung, dự báo cung - cầu lao động nói riêng đang rất thiếu và rất yếu. Hầu hết các đơn vị, cơ quan đều không có bộ phận chuyên trách cho công tác này. Phải chăng chúng ta dường như chưa chú trọng tới công tác dự báo cung cầu lao động?
TS Bùi Sỹ Lợi:
Bộ máy của hệ thống TTDVVL đã hình thành từ lâu, được quy định trong pháp luật và bộ máy ngành lao động. Tuy nhiên, công việc càng tăng, yêu cầu chất lượng càng cao. Trong khi chúng ta phải thực hiện các nghị quyết trung ương giảm biên chế, cơ cấu lại các sự nghiệp công lập.
Các TTDVVL ở các địa phương, Bộ LĐTBXH cũng nằm trong xu hướng đó, thế cho nên rõ ràng số lượng cán bộ có phần chưa đáp ứng hết nhiệm vụ yêu cầu, đấy là một tồn tại chung của cải cách nhà nước.
Nhưng vấn đề quan trọng là xây dựng bộ máy thông tin điện tử, và đổi mới công nghệ. Cục trưởng Cục việc làm cũng như Bộ đang trong thời gian nghiên cứu, tuy nhiên, tôi đánh giá quá trình phát triển, đẩy nhanh thực hiện công nghệ thông tin còn hạn chế.
Vì vậy, trong thời gian tới, chúng ta cần có tổ chức trong quá trình đổi mới bộ máy công lập, từng bước nâng cao chất lượng cán bộ. Ngoài ra, còn phải cố gắng liên kết công nghệ thông tin giữa BHXH Việt Nam cùng các TTDVVL về các chính sách thất nghiệp cho người lao động. Hiện nay, chúng ta đã có đủ điều kiện tài chính để thực hiện số hóa.
10:27
Hỏi: Thưa ông Nguyễn Trọng Hưng, Công ty CP MediaMart Việt Nam, là một công ty có nhu cầu cao về tuyển dụng nhân sự, ông có thể chia sẻ về tác động của dịch Covid-19 trong năm nay đến doanh nghiệp như thế nào về mặt nguồn nhân lực? Doanh nghiệp có giải pháp tiếp cận thông tin thị trường lao động như thế nào nhất là trong bối cảnh dịch hiện nay? Như đã lắng nghe các diễn giả trao đổi ở trên về hai Đề án “Hỗ trợ phát triển thị trường lao động đến năm 2030” và Đề án “Nâng cao năng lực dự báo cung-cầu lao động” đang được xây dựng và lấy ý kiến rộng rãi, ông có kỳ vọng gì để hỗ trợ doanh nghiệp tốt hơn trong tiếp cận với thông tin về thị trường lao động?
Ông Nguyễn Trọng Hưng, Công ty CP MediaMart Việt Nam:
Cũng như các doanh nghiệp nói chung, dịch Covid-19 tác động không nhỏ đến nguồn nhân lực nói chung và người lao động nói riêng. Đầu năm 2020, khi dịch Covid-19 bùng phát, thực hiện chủ trương giãn cách xã hội, các cửa hàng cũng phải đóng cửa dừng đón khách, nên thời gian này, chúng tôi dừng tuyển dụng, cho nhân sự nghỉ việc tạm thời. Doanh thu sụt giảm mạnh, nên cũng ảnh hưởng không nhỏ đến tâm lý và phần thu nhập của nhân viên.
Tuy nhiên, ngay trong thời điểm đó, lãnh đạo công ty đã tìm kiếm giải pháp, đẩy mạnh làm việc từ xa, làm việc trực tuyến, và đẩy mạnh bán hàng trực tuyến. Do vậy, chúng tôi đã nhanh chóng chuyển từ tạm nghỉ sang làm việc tại nhà, biến mỗi nhân viên của công ty thành một đại lý bán hàng của Media Mart. Giải pháp này cũng tạo ra nguồn thu ổn định cho nhân viên, giúp họ ổn định cuộc sống, vượt qua khó khăn. Kể cả các thời điểm khó khăn nhất, công ty cũng bảo đảm chi trả tiền lương cho người lao động để không bị chậm lương.
Khi dịch Covid-19 lắng xuống chúng tôi tiếp tục mở rộng hoạt động kinh doanh ở bốn tỉnh miền trung (Quảng Bình, Quảng Trị, Huế, Đà Nẵng) và các tỉnh đang hoạt động như Hà Nội, Thái Nguyên… Do vậy, nhu cầu nhân sự của Media Mart cũng khá lớn. Vì vậy, việc tiếp cận các ứng viên, người lao động là thường xuyên với tất cả các kênh như sàn giao dịch việc làm, các trang tuyển dụng online, trực tiếp tiếp cận người lao động tại các trường nghề, trường cao đẳng, đại học… và các mạng xã hội như Zalo, Facebook.
Khi dịch bệnh xảy ra, chúng tôi dịch chuyển mạnh hơn các kênh trực tuyến, đặc biệt là các mạng xã hội để tìm kiếm và tiếp cận thị trường và người lao động.
Qua các nội dung mà các diễn giả đã trao đổi, tôi nhận thấy Đề án đã đưa ra được những giải pháp với những nội dung hết sức cụ thể, chú trọng rất nhiều vào việc hướng nghiệp cho học sinh, sinh viên sau khi tốt nghiệp. Điều này góp phần giải quyết được vấn đề tồn đọng khá lâu trong hoạt động đào tạo: Học là một chuyện còn làm là chuyện khác. Tạo ra được tư duy định hình rõ ràng cho người học là học ra để làm gì, hỗ trợ sát người lao động các thông tin tuyển dụng chính thống, giúp người lao động và người sử dụng lao động sớm tìm được nhau làm giảm bớt thời gian tuyển dụng và giảm bớt các chi phí không cần thiết.
Tôi rất kỳ vọng Hệ thống thông tin thị trường lao động quốc gia sớm được hoàn thiện và liên thông trong toàn quốc (giống như các chỉ số trên thị trường chứng khoán), để người lao động và người sử dụng lao động khi có nhu cầu thì việc tiếp cận sẽ dễ dàng, đầy đủ thông tin và kết nối nhanh chóng. Nếu làm được như vậy, tôi tin chắc doanh nghiệp và người lao động sẽ giảm được chi phí đáng kể và hoạt động của thị trường lao động cũng hiệu quả hơn rất nhiều.
10:33
Thưa TS Bùi Sỹ Lợi, một chuyên gia của Tổ chức Lao động quốc tế ILO từng phân tích, Việt Nam sẽ cần một mô hình tăng trưởng mới để thoát khỏi nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình thấp và để đạt được hiện đại hóa, công nghiệp hóa cũng như tăng trưởng bền vững. Điều này đòi hỏi một hình thức thị trường lao động mới - một thị trường lao động mà mọi người đều có cơ hội tiếp cận. Vậy ý kiến của ông về vấn đề này như thế nào?
TS Bùi Sỹ Lợi:
Nếu chúng ta không đi đúng định hướng, tạo ra một năng suất lao động mới, cao hơn để hội nhập kinh tế quốc tế,..thì chắc chắn sẽ rơi vào bẫy thu nhập trung bình thấp. ILO đã cảnh báo điều này lâu rồi.
Tôi xin khẳng định Chính phủ và Bộ LĐTBXH đã có bước tiến dài trong lĩnh vực kết nối thị trường lao động. Tuy nhiên, chúng ta không thể tự mãn với những kết quả đạt được vì thị trường lao động biến đổi từng ngày, từng giờ, từng tháng.
Trước đây có những lúc chúng ta đã phải kêu gọi đầu tư nước ngoài bằng mọi giá, sử dụng nhiều lao động chưa qua đào tạo nghề, hay nói cách khác là các ngành nghề thông dụng lao động. Đến giai đoạn này, Việt Nam không cho phép kêu gọi đầu tư bằng mọi giá mà phải lựa chọn các ngành nghề đồi hỏi lao động chất lượng cao vì Việt Nam bắt đầu bước vào quá trình giảm dần thời kỳ “dân số vàng”, chuyển sang già hóa dân số, dẫn tới có thể làm thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao.
Cách đây 5 năm, mỗi năm thị trường lao động Việt Nam được bổ sung 1 triệu lao động, đến nay chỉ còn khoảng 400 nghìn lao động. Nên việc đưa người Việt Nam đi lao động nước ngoài không phải là mục tiêu lớn để giải quyết chỉ tiêu việc làm theo Nghị quyết của Quốc hội mà quan trọng là chất lượng nguồn nhân lực phải tăng lên. Do đó, Bộ LĐTBXH đưa ra hai Đề án này để đáp ứng yêu cầu sử dụng được nguồn lao động của chúng ta mà nhưng bảo đảm thị trường lao động hiện đại và việc làm bền vững.
Cần phải nghiên cứu kỹ cảnh báo của ILO vì ILO đã tổng kết hàng trăm năm quá trình phát triển thị trường thế giới.
10:37
Hỏi: Thế giới đã đi trước chúng ta nhiều năm trong việc dự báo cung - cầu việc làm. Có mô hình thành công nào trên thế giới để chúng ta học tập không, thưa ông?
TS Vũ Trọng Bình, Cục trưởng Cục Việc làm, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội:
Khi chúng tôi làm đề án về cung cầu lao động thì thấy rằng có rất nhiều mô hình trên thế giới, rất nhiều kinh nghiệm, và cũng tranh cãi rất nhiều, mô hình nào là chính xác, mô hình nào không phù hợp?! Có thể nói việc dự báo cung cầu lao động là rất khó khăn và rất phức tạp, càng dự báo chiến lược thì càng đỡ hơn dự báo cụ thể.
Quan điểm của chúng tôi là việc đầu tiên khi thực hiện đề án này là xác định chúng ta dự báo cho ai và để làm gì?
Để trả lời câu hỏi này, như hôm qua tôi làm việc với Trung tâm Dịch vụ việc làm Hà Nội, anh em cũng làm phân tích, dự báo và tôi hỏi dịch vụ đó ai dùng, dùng vào việc gì, có hiệu quả không?
Nhận thức được điều ấy thì chúng tôi xác định, thứ nhất là dùng cho Trung ương - đấy là nhiệm vụ chính trị. Trung ương dùng dự báo cung cầu lao động để xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Đây là một công việc rất cần thiết. Thứ hai là để hoạch định quy hoạch địa bàn, cũng hết sức cần thiết. Đấy là về dài hạn và trung hạn. Tuy nhiên, một việc nữa cũng hết sức cần thiết là dự báo ngắn hạn, thậm chí là hằng tháng, nhất là trong thời điểm dịch Covid-19 vừa qua. Dù có hay không có thì chúng ta cũng phải phân tích để phục vụ trước hết là cấp tỉnh. Đối với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thì phải tổng hợp lại để báo cáo Chính phủ.
Trong đợt Covid-19 vừa qua thì Cục Việc làm chúng tôi phải có báo cáo về kinh nghiệm quốc tế về xử lý khủng hoảng bởi dịch Covid-19, phân tích chính sách của 115 nước, cập nhật thường xuyên từ tháng 3 cho đến tháng 9, làm hằng tháng; thậm chí có lúc làm hằng tuần khi tình hình căng thẳng. Phân tích thị trường và đưa ra những dự báo ngắn hạn.
Vấn đề nữa là chúng ta phải có dự báo cho doanh nghiệp, xu thế dịch chuyển việc làm từ lĩnh vực này sang lĩnh vực kia. Chúng ta phải dự báo được xu thế chuyển dịch việc làm trong một chuỗi giá trị, từ vị trí việc làm này lên vị trí việc làm cao hơn.
Thí dụ, nếu chiến lược của chúng ta là từ công nghiệp hóa phát triển công nghiệp phụ trợ, có nghĩa là chuyển từ giản đơn sang phụ trợ, rồi từ phụ trợ chúng ta đi thêm một bước nữa là nắm bắt công nghệ. Quá trình này đòi hỏi là phải dự báo được sự dịch chuyển của các khâu, công đoạn như thiết kế, phụ trợ... của các chuỗi giá trị thế giới dịch chuyển vào Việt Nam, và dịch chuyển của các vị trí lao động trong các chuỗi giá trị đó như thế nào. Đây là một việc rất là khó, phải xác định là cần dự báo cái gì cho người lao động, phải cụ thể vị trí việc làm đó nằm ở đâu, lương thế nào, vùng miền ra làm sao.... và phải đánh giá hiệu quả của nó. Đây là một tư duy hết sức thực tế nhằm bảo đảm được hiệu quả lao động.
Tôi cho rằng cần có nhiều hệ thống đa tầng để thu thập dữ liệu và dự báo. Thí dụ để dự báo cho Trung ương và cấp tỉnh, thành phố thì chúng tôi đang xây dựng một hệ thống quan trắc thông tin 63 tỉnh, thành phố để nắm bắt nhanh tình hình. Dự báo chiến lược dài hạn thì chúng ta phải có bộ dữ liệu, Big Data kết nối các dữ liệu khác nhau để phục vụ quá trình phân tích. Quá trình dự báo này thời gian qua chúng ta thu thập dữ liệu một cách thủ công và rất khó khăn khi sự kết nối giữa các bộ, ngành còn hạn chế, còn rất nhiều vấn đề về thu thập, xử lý, kinh phí...
Tôi cho rằng việc thu thập xử lý dữ liệu cần hướng tới xã hội hóa, cần hình thành những doanh nghiệp chuyên nghiệp trong việc thu thập, xử lý dữ liệu, chứ không hẳn chỉ dựa vào các cơ quan quản lý Nhà nước, các cơ quan nghiên cứu và các trường đại học. Để bảo đảm được việc này cần sự quan tâm ủng hộ của Quốc hội để hoàn thiện thể chế, chính sách về vấn đề này.
Bên cạnh đó, nếu chúng ta làm tốt việc thu thập dữ liệu, xử lý để dự báo cung cầu lao động sẽ giúp cho việc giao dịch trên thị trường được minh bạch hơn với chi phí giảm. Thị trường càng liên thông, càng minh bạch thì chi phí càng giảm và tính hiệu quả của thị trường đánh giá bằng chi phí giao dịch, chi phí giao dịch càng thấp thì thị trường càng hiệu quả.
Đối với Cục Việc làm thì trong thời gian sắp sẽ cố gắng thúc đẩy để liên kết 63 sàn giao dịch việc làm của các Trung tâm Dịch vụ việc làm trên cả nước. Việc thúc đẩy liên kết các sàn để chia sẻ dữ liệu là hết sức quan trọng cho chính sức sống của các sàn giao dịch, giúp cho thị trường lao động phát triển và công tác hoạch định chính sách được bảo đảm.
Cục Việc làm xác định đây là một đề án khó, chưa có tiền lệ, vì tìm chuyên gia sâu về lĩnh vực này rất khó, nên chúng tôi xác định là vừa làm, vừa thiết kế, vừa cụ thể hoá với quan điểm chủ đạo xây dựng hai đề án này là trước hết phải xác định thực tiễn và trả lời được thực tiễn; hai là đúng quan điểm Đảng; ba là những vấn đề lý luận của thị trường, của kinh tế thị trường là phải được đưa vào để chúng ta đổi mới và chúng ta làm được.
Và quan trọng nhất là các sản phẩm phải phục vụ cuộc sống.
10:44
Hỏi: Hiện nay nhiều doanh nghiệp đã chủ động tìm kiếm nguồn lao động phù hợp bằng việc liên kết với các trường đại học. Tuy nhiên, thực tế việc đào tạo lại cho phù hợp với từng doanh nghiệp vẫn đang diễn ra. Thưa TS.Ngô Quỳnh An, bà đánh giá thế nào về vai trò của doanh nghiệp trong việc minh bạch, kết nối thông tin đến người lao động?
TS Ngô Quỳnh An, Đại học Kinh tế quốc dân:
Chúng ta cần xác định rõ vai trò đào tạo của các trường đại học. Thực tế, đào tạo chuyên nghiệp khác đào tạo trong doanh nghiệp. Vì thế, các doanh nghiệp vẫn phải đào tạo lại lao động khi tuyển dụng.
Trường đại học sẽ đào tạo nhân lực bậc cao vào mục tiêu chúng tôi hướng tới là đào tạo kỹ năng tư duy chung để giúp các em có nền tảng; sau này các em sẽ độc lập đưa ra giải pháp xử lý các tình huống thực tế chứ chúng tôi không đi sâu vào kỹ năng cụ thể. Vì thế, các doanh nghiệp là đơn vị đào tạo tốt nhất lao động tuyển dụng thông qua các khóa đào tạo ngắn, bổ sung chứng chỉ nghề.
Trong hệ thống đào tạo kỹ năng kiến thức cho người lao động, doanh nghiệp là một hợp phần không thể thiếu. Bên cạnh việc cung cấp thông tin cần lao động loại nào, kỹ năng thì tham gia đào tạo cũng là một nhiệm vụ, sứ mệnh quan trọng của doanh nghiệp. Việc kết nối giữa doanh nghiệp với các trường đại học rất cần thiết.
Thí dụ, trong ngành quản trị nhân lực của chúng tôi có mạng lưới cựu sinh viên đã ra trường, nên các em sinh viên đến năm thứ ba đã tìm được việc làm hết. Trong ngành nhân sự có thị trường nhỏ giúp các em kết nối với nhà tuyển dụng, doanh nghiệp với sinh viên mới ra trường. Vì thế, việc kết nối, minh bạch thông tin rất quan trọng.
10:48
Hỏi: Thưa TS Vũ Trọng Bình, tính đến năm 2018, cả nước có 63 Trung tâm dịch vụ việc làm trực thuộc Sở Lao động, Thương binh và Xã hội các tỉnh, thành phố với 227 chi nhánh/điểm tiếp nhận thực hiện các dịch vụ việc làm và giải quyết chế độ bảo hiểm thất nghiệp. Tuy nhiên, tỷ lệ người lao động thất nghiệp tìm được việc làm qua các trung tâm dịch vụ việc làm vẫn chỉ ở mức trên dưới 30%. Vậy cần làm gì để cải thiện vấn đề này?
TS Vũ Trọng Bình:
Chúng ta cần xác định rõ lại câu hỏi rằng, các trung tâm dịch vụ việc làm có cần phủ sóng tất cả các giao dịch việc làm hay không? Và theo tôi nghĩ là không cần thiết.
Thứ nhất, theo tôi, vai trò của Trung tâm dịch vụ việc làm (TTDVVL) mang tính chất điều phối, hỗ trợ, lôi kéo thị trường. Nếu các TTDVVL hiện nay giải quyết đến 50%, nhìn chung là tốt. Mặc dù các trung tâm khác chỉ giải quyết đc 10% nhưng họ kết nối DN tốt, điều phối thị trường tốt, thì ở góc độ khác, tôi thấy đúng đắn hơn với vai trò của Nhà nước. Cho nên, quan điểm hiện nay là xác định vai trò trung tâm việc làm làm gì? Đối với lao động thu nhập tương đối thấp ít được DN việc làm quan tâm hơn so giao dịch việc làm có vị trí lương cao. Vì vậy, theo quan điểm của chúng tôi thì nên xây dựng thể chế, cơ chế vận hành để DN dịch vụ việc làm thực hiện.
Bài toán làm như thế nào để kết nối hệ thống DN dịch vụ việc làm sao cho hiệu quả phải được làm rõ ràng.
Thứ hai, thể chế, cơ chế dịch vụ việc làm phải thật sự kết nối được với DN. Trung tâm có thể mở rộng hoạt động với lĩnh vực khác mà không theo đặt hàng của Nhà nước, họ có thể đưa ra cơ chế (hiện nay chưa có), như thu phí trong việc cung cấp dữ liệu.
Như TS Bùi Sỹ Lợi đã nói, nếu như chất lượng lao động trở thành lợi thế cạnh tranh, tại sao các nước lại bị tụt hậu? Thứ nhất, chúng ta chưa đủ sức để thực hiện công nghiệp hóa, bởi có nhiều cung bậc như: Sao chép, phụ trợ, quản trị và sáng tạo chuỗi dây chuyền sản xuất, tạo ra công nghệ; làm chủ hoàn toàn các sáng chế, công nghệ. Vì vậy, muốn công nghiệp hóa hiệu quả, người lao động phải đủ sức bước lên các nấc thang của quá trình công nghiệp hóa về trình độ. Ngoài ra, chất lượng lao động phải có sức hút cạnh tranh.
Đó là bài toán chúng ta giải quyết được bẫy thu nhập trung bình. Lao động việc làm phải là thước đo, có sức hút để tạo lợi thế cạnh tranh, giúp nhà đầu tư tìm đến với chúng ta. Trung tâm việc làm được xác định có vai trò điều phối, giải quyết những việc mà thị trường, DN tư nhân không làm.
10:55
Hỏi: Thưa TS Ngô Quỳnh An, một trong những nguyên nhân chưa xây dựng được thị trường lao động hiện đại do thiếu kết nối, thiếu thông tin. Thực trạng này có phải chỉ xảy ra đối với Việt Nam? Bà có nhận định gì về vấn đề này? Bà đánh giá thế nào về vai trò của nhà nước trong thực hiện dự báo cung cầu lao động? Chúng ta nên có lộ trình dự báo như thế nào?
TS Ngô Quỳnh An, Đại học Kinh tế quốc dân:
Hiện nay, Trường Đại học Kinh tế quốc dân cũng đã xác định được nhu cầu đào tạo các chuyên gia phân tích, dự báo về nhân khẩu học, dân số, về lao động và việc làm. Tuy nhiên, qua buổi Tọa đàm thì tôi thấy sự thiếu hụt các chuyên gia như vậy, mặc dù nhu cầu này không quá lớn.
Do đó, tôi rất mong là trong các chính sách, các đề án của Cục Việc làm thì chúng ta làm thế nào đó để lồng ghép và đặt ra một vấn đề rõ ràng. Căn cứ vào đó thì trường chúng tôi tiếp tục phát triển đào tạo các nhóm chuyên gia phân tích, dự báo về nhân lực về các lĩnh vực này. Bởi vì các trường hiện nay cũng đang chịu áp lực từ nhu cầu thị trường, cho nên sẽ phát triển đào tạo các ngành mới nổi mà thị trường có nhu cầu. Thí dụ như các ngành liên quan tới quốc tế thì rất đông sinh viên, còn các ngành rất cần thiết thì dường như đang bị lãng quên.
Để trả lời câu hỏi, vấn đề thiếu thông tin, gãy đứt thông tin thì đây là vấn đề chung của các nước đang phát triển, chứ không phải chỉ riêng ở Việt Nam. Và trong quá trình này thì rõ ràng là Nhà nước đóng vai trò hết sức quan trọng, bởi vì đây là lĩnh vực rất cần thiết nhưng lại không đem lại lợi nhuận hay lợi ích trực tiếp trước mắt. Do đó, việc xã hội hoá bao giờ cũng phải có “Nhà nước đi đầu, Nhà nước quản lý và Nhà nước định hướng, kết nối” thì hệ thống dữ liệu, thông tin này mới phát huy hiệu quả được.
Điều này cũng trùng với ý kiến của TS Vũ Trọng Bình, Cục tưởng Cục Việc làm, là Nhà nước đóng vai trò kiến tạo, quản lý, định hướng, kết nối và đặt những “viên gạch” đầu tiên để xây dựng hệ thống dự báo thông tin dịch vụ việc làm này.
11:00
Hỏi: Có tình trạng nguồn cung LĐ không đồng đều, nguồn cung chủ yếu ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Nguồn cầu LĐ lại chủ yếu ở tam giác phát triển phía bắc và Đông Nam Bộ. Sự mất cân đối cung - cầu lao động không phải là câu chuyện mới nhưng chúng ta vẫn đang loay hoay chưa tìm ra giải pháp?
Ông Vũ Trọng Bình:
Đúng là hệ thống trung tâm dịch vụ việc làm đã được thiết kế và vận hành đã có hiệu quả trong 10 năm qua nhưng thực tế đối với sự thay đổi hiện nay, thì đúng là có nhiều vấn đề. Hiện nay chúng tôi đang sửa đổi Nghị định về các trung tâm dịch vụ việc làm và giao dịch. Vấn đề thứ nhất, ngay từ nhận thức, không phải chính quyền địa phương nào cũng nhận thức trung tâm dịch vụ việc làm đúng theo Công ước quốc tế 88 mà Chủ tịch nước đã ký. Đó là trung tâm dịch vụ việc làm là đơn vị công, làm dịch vụ công, bảo đảm sự kết nối giữa thị trường và Nhà nước. Có những địa phương đã từng mong muốn cổ phần hóa các trung tâm dịch vụ việc làm và Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã có những hành động rất nhanh để chấn chỉnh.
Thứ hai, ngay cơ chế tổ chức của trung tâm dịch vụ việc làm hiện nay cũng đang khó khăn, chúng tôi đang cố gắng để đổi mới. Khó khăn thứ nhất, chúng ta xác định cơ chế của trung tâm dịch vụ việc làm có viên chức khung, và việc ký hợp đồng phải mở ra cho trung tâm được phép ký hợp đồng với thị trường và nhận các hợp đồng giao dịch hỗ trợ các doanh nghiệp. Việc này vẫn còn khó khăn. Chúng ta coi trung tâm dịch vụ việc làm hoạt động như một đơn vị hoàn toàn miễn phí với thị trường, trong khi đó kinh phí cấp cho các trung tâm lại rất hạn chế và ngày càng bị cắt đi. Cho nên chúng ta đang là một "cơ chế bó": bắt trung tâm hoạt động theo cơ chế thị trường, nhưng lại ở trong trại thái bó các trung tâm theo cơ chế hoàn toàn miễn phí, dịch vụ miễn phí. Đây là một mâu thuẫn mà chúng tôi đang cố gắng đề xuất để giải quyết.
Vấn đề thứ hai là tính chuyên nghiệp của các cán bộ trung tâm. Làm các giám đốc và nhân viên trung tâm đòi hỏi phải hiểu biết về thị trường, về kỹ năng giao dịch việc làm. Chúng tôi đã cố gắng đào tạo nhưng không phải lúc nào cũng có. Một số chính quyền địa phương chưa thực sự coi trọng vấn đề này. Có những cán bộ địa phương không hiểu gì về dịch vụ việc làm nhưng một ngày nào đó cũng vẫn có thể về làm giám đốc hay cán bộ ở trung tâm. Cho nên việc chuẩn hóa trình độ, kỹ năng của đội ngũ trung tâm dịch vụ việc làm là cũng hết sức khó khăn.
Đối với CNTT, Đảng và Nhà nước đã chỉ đạo, và có chính sách. BHXH VIệt Nam đã có đề án về CNTT đi trước. Hiện nay chúng tôi đang trình Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội một đề án CNTT về bảo hiểm thất nghiệp, hy vọng năm nay hoặc đầu sang năm sẽ được phê duyệt.
Quan điểm của Cục Việc làm khi trình Bộ và Bộ trưởng Đào Ngọc Dung là rất quyết tâm để số hóa toàn bộ hoạt động quản trị thị trường lao động, bảo đảm công nghệ 4.0, nhất là lĩnh vực việc làm phải đi đầu trong công nghệ này.
Lý do cho việc này là, Bộ trưởng đã chỉ đạo Cục đệ trình một phương án toàn bộ, khi chúng tôi làm dự án, không phải là mua hạ tầng tại Cục Việc làm, mà chúng tôi đang đàm phán và đưa vào dự án để thuê hạ tầng CNTT kết nối luôn với 63 trung tâm dịch vụ việc làm một hạ tầng tổng thể. Trên cơ sở đó, các trung tâm dịch vụ việc làm có thể kết nối với nhau trên băng thông rộng, và lập tức các phần mềm được viết trên hoạt động đó. Khi đó việc kết nối giữa BHXH và BH thất nghiệp rất dễ dàng. Ngoài ra toàn bộ việc khảo sát điều tra về lao động và giao dịch việc làm sẽ được căn bản giải quyết bằng công nghệ thông tin. Hy vọng năm 2021 chúng tôi sẽ giải quyết được vấn đề này. Dự án đang thiết kế và Bộ cũng đang xem xét, Bộ trưởng cũng quyết tâm rất lớn.
Đối với cung cầu lao động, cung cầu lệch pha nhau là chuyện bình thường. Nếu không thì không có thị trường, và thị trường không hoạt động. Vấn đề là làm thế nào lấp đầy quá trình lệch pha đó nhanh chóng. Ở Việt Nam, trình độ phát triển, sự liên kết giữa các vùng miền là hết sức bình thường, chúng ta không được coi đó là bất bình thường. Cung lao động ở một số vùng, một số tỉnh lớn là rất bình thường vì điều kiện phát triển kinh tế xã hội khác nhau. Vấn đề là chúng ta làm thế nào kết nối cung cầu đó. Hiện nay chúng tôi đã tổ chức kết nối các trung tâm dịch vụ việc làm liên vùng, liên tỉnh, thậm chí toàn quốc.
Thí dụ trong ngày thứ 2 tới, chúng tôi sẽ có hoạt động kết nối giữa lao động bộ đội xuất ngũ với Trung tâm dịch vụ việc làm Nghệ An để giúp các em vào khu vực Bình Dương hoặc ra bắc làm việc hoặc lao động ở nước ngoài. Việc đó lớn nhưng không khó lắm. Vấn đề khó hiện nay là mất cân đối cung cầu lao động nên khó kết nối, đó là khi chúng ta mở cửa với thế giới và việc dịch chuyển các chuỗi giá trị.
Dịch chuyển ở đây có hai hướng là dịch chuyển giữa các chuỗi giá trị từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác. Thí dụ Việt Nam đang là điểm đến của công nghiệp điện tử, của logistic và dịch vụ hiện đại, thì phải làm thế nào cho lao động nông nghiệp, lao động của địa bàn nông thôn được đào tạo để dịch chuyển sang các lĩnh vực đó, tức là dịch chuyển theo chiều ngang. Thứ hai, ngay trong một chuỗi giá trị, thí dụ ngay trong ngành nông nghiệp, nếu chúng ta càng hội nhập sâu về kinh tế toàn cầu, trình độ của người lao động phải dịch chuyển từ phân khúc này sang phân khúc kia. Sự dịch chuyển đó là về trình độ lao động chứ không phải lĩnh vực lao động.
Việc dịch chuyển giữa các lĩnh vực lao động đã là phức tạp và khó, việc dịch chuyển trình độ lao động trong một chuỗi giá trị, chúng tôi gọi là dịch chuyển lao động nội ngành còn phức tạp và khó khăn hơn nhiều. Quan trọng là phải xác định kỹ và dự báo, cung cấp cho các cơ sở đào tạo. Đó cũng là vấn đề dự báo thị trường lao động, rất khó.
Hiện nay thẳng thắn mà nói, công tác dự báo của chúng ta cũng chưa đáp ứng được yêu cầu. Chúng ta mới nói định tính, chưa lượng hóa được, kể cả các cơ sở nghiên cứu lớn khi nói phần lớn là định tính. Nhưng khi nào, bao nhiêu, số lượng như thế nào, kỹ năng cụ thể như thế nào, chúng ta chưa có. Cho nên việc phải có nguồn kinh phí là một chuyện, có phương pháp dự báo sẽ giúp cho các cơ sở đào tạo tiến hành đào tạo dài hạn, ngắn hạn. Việc này sẽ giúp giải quyết bài toán cung cầu về căn bản. Chúng tôi cũng đưa vào đề án này.
Việc giải quyết cung cầu giữa vùng miền là một chuyện, giải quyết cung cầu giữa các lĩnh vực nông nghiệp - công nghiệp - đô thị, nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ là một chuyện nữa. Giải quyết vấn đề cung cầu giữa các địa bàn nông thôn là một câu hỏi, giải quyết vấn đề cung cầu giữa các chuỗi giá trị là một câu hỏi, giải quyết vấn đề cung cầu trong cơ cấu lao động nội ngành giữa các thang bậc của một chuỗi giá trị là vấn đề khó nhất mà hiện nay đang đặt ra.
Nếu chúng ta không giải quyết được vấn đề này, rất khó công nghiệp hóa được. Đặc biệt trong công nghiệp 4.0, cung cầu lao động, chúng ta nói thế thôi, về mặt định tính, nhưng thế nào là công nghiệp 4.0, đi vào từng lĩnh vực như thế nào, vậy thị nhu cầu như thế nào, kỹ năng của lao động 4.0 như thế nào và đòi hỏi bao nhiêu. Phải lượng hóa lên, tuy không hoàn toàn chính xác nhưng chúng ta phải định hướng được, điều đó bây giờ chưa có. Cho nên đề án này sẽ giúp Nhà nước có những định hướng, cơ chế chính sách để huy động nguồn lực trong và ngoài nước để các cơ quan thực sự nghiên cứu lao vào làm việc này và kể cả các doanh nghiệp. Còn Cục Việc làm chúng tôi chỉ mang tính chất quản lý Nhà nước và điều phối, giúp đỡ hỗ trợ là chính.
11:10
Hỏi: Xin hỏi TS Nguyễn Xuân Hải, thưa ông, với tư cách là chuyên gia đã có những nghiên cứu thị trường lao động ở các nước phát triển và cũng là người trực tiếp tham gia đề án hỗ trợ phát triển thị trường lao động ở Việt Nam, chúng tôi muốn nghe một số chia sẻ của ông về về thị trường lao động Việt Nam và mô hình lao động hiện đại.
TS Nguyễn Xuân Hải:
Trước hết phải nói hai đề án chúng ta thảo luận hôm nay rất khó. Tôi từng tham gia môi trường giảng dạy chuyên sâu ở nước ngoài, sau đó về Cục và được phân công làm đầu mối kết nối cán bộ trong cục, và các tổ chức trong nước và quốc tế.
Khi thực hiện quá trình này, một trong những khó khăn đầu tiên đó là phải thống nhất phương pháp nghiên cứu và cơ sở lý luận, tiếp đó cần xây dựng thị trường đồng bộ, hiện đại, có tính tiếp cận để đưa ra giải pháp có sự thống nhất cho cả hai đề án, và cũng để áp dụng cho những đề án sau nữa.
Căn bản, chúng tôi đầu tiên cố gắng đúc kết các cơ sở lý luận đã được nghiên cứu, áp dụng vào thị trường Việt Nam, sau đó, phân tích quá trình phát triển của nhiều nước trên thế giới qua các chính sách đặc thù (gồm các nước Mỹ, Thái Lan, Nhật bản, Hàn Quốc…) Từ đó, các chuyên gia có thể hình thành khung lý thuyết chung, đúc rút ra những bài học chung của thị trường lao động.
Song song với đó là nghiên cứu quá trình phát triển của thị trường lao động Việt Nam qua các giai đoạn, qua từng thời kỳ. Qua đó, chúng tôi có thể so sánh và lấy kinh nghiệm thực tế. Tất cả những phân tích này thì đều dựa trên khung lý thuyết chúng tôi xây dựng từ ban đầu, cùng với đó là căn cứ vào bối cảnh phát triển, xu hướng thế giới, sự lãnh đạo của Đảng.
Từ đó, chúng tôi mới đưa ra được các giải pháp bao quát được thị trường. Trước đó, những giải pháp sẽ được tham vấn, góp ý bởi các chuyên gia trên thế giới ở các trường đại học.
11:20
Phát biểu kết luận buổi giao lưu của đồng chí Nguyễn Ngọc Thanh, Trưởng Ban Nhân Dân điện tử:
Trong gần hai giờ đồng hồ, các vị khách mời đã giải đáp cho độc giả các nội dung liên quan hai đề án rất quan trọng: Đề án “Hỗ trợ phát triển thị trường lao động đến năm 2030” và “Nâng cao năng lực dự báo cung - cầu lao động” đang được Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội xây dựng dự thảo, Cục Việc làm chủ trì.
Tại buổi tọa đàm, các đại biểu đã làm rõ ý nghĩa, mục tiêu và sự cần thiết của hai đề án đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước đến 2030. Đồng thời, các vị khách mời cũng đã làm rõ những căn cứ xây dựng dự án, dự báo sát thực tiễn thị trường lao động hiện nay.
Qua buổi tọa đàm, chúng ta đã đạt mấy mục tiêu: Thứ nhất, phổ biến được nội dung hai đề án quan trọng, thiết thực trong quá trình hội nhập và phát triển trong 10 năm tới; Thứ hai, thông qua cuộc tọa đàm, chúng ta nhận nhiều ý kiến đóng góp của bạn đọc, chuyên gia, người lao động và qua cuộc này, những chuyên gia có thể gửi ý kiến góp phần xây dựng đề án theo mục tiêu, xây dựng thị trường lao động hiện đại, bền vững, góp phần đến năm 2030 đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp hiện đại, có thu nhập trung bình cao.
Tôi chúc quá trình xây dựng hai đề án của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thành công, sát thực tiễn góp phần thiết thực vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước đến năm 2030.