Tìm giải pháp phát triển bảo hiểm y tế vùng khó khăn

Hiện nay có khoảng 3,1 triệu người (trong đó, có khoảng 2,1 triệu người là đồng bào dân tộc thiểu số) không được ngân sách nhà nước cấp mua thẻ bảo hiểm y tế. Để phát triển hiệu quả người tham gia đối với 10% dân số còn lại, góp phần hoàn thiện mục tiêu bảo hiểm y tế toàn dân, đòi hỏi phải có những giải pháp quyết liệt...
0:00 / 0:00
0:00
Các bác sĩ Bệnh viện đa khoa huyện Đăk Glong (Đắk Nông) khám, chữa bệnh cho đồng bào dân tộc thiểu số có thẻ bảo hiểm y tế. (Ảnh NGUYỄN ĐĂNG)
Các bác sĩ Bệnh viện đa khoa huyện Đăk Glong (Đắk Nông) khám, chữa bệnh cho đồng bào dân tộc thiểu số có thẻ bảo hiểm y tế. (Ảnh NGUYỄN ĐĂNG)

Thời gian qua với sự quan tâm, chỉ đạo của Đảng, Chính phủ và sự phối hợp chặt chẽ của các bộ, ngành trong hướng dẫn, tổ chức triển khai thực hiện Luật Bảo hiểm y tế, đặc biệt là việc ngân sách nhà nước mua thẻ bảo hiểm y tế cho các nhóm đối tượng, trong đó có đồng bào dân tộc thiểu số sống ở vùng có điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn, đã giúp đồng bào dân tộc thiểu số tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe hiện đại, giảm bớt gánh nặng về tài chính và góp phần tăng tỷ lệ bao phủ dân số tham gia bảo hiểm y tế.

Ngân sách bị “cắt”, số người tham gia giảm sâu

Tuy nhiên, từ năm 2021 do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 và chính sách mua thẻ bảo hiểm y tế cho người dân sinh sống tại các xã khu vực III, khu vực II, khu vực I thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2025 theo Quyết định số 861/QĐ-TTg ngày 4/6/2021 của Thủ tướng Chính phủ và người dân sinh sống tại huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo giai đoạn 2021-2025 theo Quyết định số 353/2022/QĐ-TTg ngày 15/3/2022 của Thủ tướng Chính phủ, số người tham gia bảo hiểm y tế đã giảm.

Trong số đó, khoảng 3,1 triệu người (có khoảng 2,1 triệu người là đồng bào dân tộc thiểu số) không được ngân sách nhà nước mua thẻ bảo hiểm y tế. Một số địa phương có số người tham gia bảo hiểm y tế giảm sâu như: tỉnh Đắk Lắk giảm 225,5 nghìn người (trong đó có 194,6 nghìn đồng bào dân tộc thiểu số); Sóc Trăng giảm 309,5 nghìn người (200 nghìn đồng bào dân tộc thiểu số); Trà Vinh giảm 243,6 nghìn người (93,8 nghìn đồng bào dân tộc thiểu số); Sơn La giảm 180 nghìn đồng bào dân tộc thiểu số; Thanh Hóa giảm 183,3 nghìn đồng bào dân tộc thiểu số…

Trước thực tế nêu trên, để tạo điều kiện cho người dân giảm bớt khó khăn, duy trì chính sách bảo hiểm y tế bền vững, góp phần hoàn thành mục tiêu đến năm 2025 có 98% số đồng bào dân tộc thiểu số tham gia bảo hiểm y tế theo Nghị quyết số 88/2019/QH14 ngày 18/11/2019 của Quốc hội phê duyệt đề án tổng thể phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030, Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã có văn bản báo cáo Thủ tướng Chính phủ, Ủy ban Dân tộc, Bộ Kế hoạch và Đầu tư báo cáo Ban cán sự đảng Chính phủ tiếp tục có chính sách đóng, hỗ trợ mức đóng bảo hiểm y tế đối với người dân thoát khỏi huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo giai đoạn 2021-2025 và người đồng bào dân tộc thiểu số thoát khỏi các xã khó khăn, đặc biệt khó khăn giai đoạn 2021-2025 nêu trên (tính đến nay còn khoảng 2,65 triệu người trong số 3,1 triệu người nêu trên chưa được tham gia bảo hiểm y tế).

Tập trung các giải pháp để tăng số người tham gia

Những báo cáo, đề xuất của Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã được Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Phạm Bình Minh chỉ đạo trong thông báo Kết luận số 251/TB-VPCP ngày 22/9/2021 của Văn phòng Chính phủ. Theo đó, về đề xuất chính sách hỗ trợ người dân tộc thiểu số sinh sống tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi tham gia bảo hiểm y tế: “Giao Bộ Y tế chủ trì, phối hợp Ủy ban Dân tộc, Bộ Tài chính và cơ quan liên quan nghiên cứu, đề xuất chính sách riêng để hỗ trợ cụ thể theo quy định của pháp luật về bảo hiểm y tế và quy định có liên quan, báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định trong quý IV/2021”…

Bảo hiểm xã hội Việt Nam cũng đề xuất, kiến nghị với Chính phủ, các bộ, ngành có liên quan rà soát và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về bảo hiểm y tế để ban hành, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp, khắc phục bất cập trong tổ chức thực hiện nhằm phát triển người tham gia bảo hiểm y tế như: Bổ sung người tham gia bảo hiểm y tế bắt buộc đối với nhóm người lao động và người sử dụng lao động là người quản lý doanh nghiệp, người quản lý điều hành hợp tác xã không hưởng tiền lương; chủ hộ kinh doanh cá thể; người lao động làm việc theo chế độ linh hoạt đồng bộ với đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc.

Quy định việc tham gia bảo hiểm y tế đối với nhóm người lao động đang tạm hoãn hợp đồng, nghỉ việc không hưởng lương; nhóm đối tượng người tham gia kháng chiến, nghệ nhân, nghèo đa chiều, dân quân tự vệ thường trực; người sinh sống ở xã ATK, vùng ATK cách mạng trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ; nạn nhân bom, mìn, vật nổ sau chiến tranh...; trẻ em dưới 6 tuổi có bố hoặc mẹ mang quốc tịch Việt Nam sinh ra ở nước ngoài sau đó được đưa về Việt Nam sinh sống lâu dài hoặc sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam; người nước ngoài sinh sống, làm việc, học tập… trên lãnh thổ Việt Nam. Và đề xuất nâng mức hỗ trợ đóng từ ngân sách nhà nước cho một số người tham gia như học sinh, sinh viên, hộ gia đình nông, lâm, ngư, diêm nghiệp có mức sống trung bình từ 30% lên 50% mức đóng bảo hiểm y tế.

Phó Tổng Giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam Đào Việt Ánh cho biết, để thực hiện kế hoạch khai thác, phát triển người tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế giai đoạn 2022-2025, trong đó, phấn đấu năm 2022 số người tham gia bảo hiểm y tế đạt 91,76 triệu người, đạt khoảng 92,7% dân số và đến năm 2025, số tham gia bảo hiểm y tế đạt 96,92 triệu người, đạt tỷ lệ 95,51% dân số, Bảo hiểm xã hội Việt Nam chỉ đạo Bảo hiểm xã hội các tỉnh, thành phố rà soát, thống kê người chưa tham gia bảo hiểm y tế làm căn cứ xây dựng chương trình phát triển người tham gia bảo hiểm y tế giai đoạn 2022-2025 của từng tỉnh.

Phối hợp các sở, ngành có liên quan tham mưu tỉnh ủy, hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân tỉnh lập kế hoạch và giải pháp cụ thể để phát triển người tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế trên địa bàn, hỗ trợ từ ngân sách địa phương và huy động các nguồn lực khác để hỗ trợ đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho người dân. Giao chỉ tiêu tham gia đến từng địa bàn (huyện, xã) với chính quyền địa phương cùng cấp, gắn trách nhiệm phát triển người tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế theo các nhóm với các sở, ngành quản lý đối tượng có liên quan…