Nhân 50 năm Ngày mất của danh tướng Nguyễn Chánh

Thuở ấy và người anh hùng Nguyễn Chánh

Trong dòng chảy vô tận của thời gian, lịch sử tạo ra những thời thế. Khoảnh khắc thời thế ấy có trở thành mãi mãi, để lại được dấu ấn lịch sử hay không, trong dòng chảy thời gian vô tận, lại nhờ ở sự xuất hiện những anh hùng. Buồn nhất cho lịch sử là những lúc vắng bóng những dũng sĩ cầm thanh gươm nghìn cân ra trận(*). Bởi thế mà vui nhất cho lịch sử, chính là lúc, trong những thời thế, lại có một lớp người và trong lớp người đó, có một người, nổi lên, lấp lánh như một ngôi sao, sớm nhận ra tình thế, nhận ra cảnh huống, nhận ra cái đòi hỏi, cái mong chờ, cái thách đố, có khi nghìn cân treo sợi tóc, vừa bão giật vừa sóng dồi, có khi lại nghìn năm có một, chỉ hôm nay mà thôi, vừa bị bưng bít và ngụy trang dưới vô vàn cái giả, lại vừa hé lộ, rạch sáng một tia chớp đột nhiên xé màn đêm, chỉ đường cho sứ mệnh. Ngôi sao ấy, từ chuỗi đời đấu tranh tích lũy mà cắt nghĩa thông minh muôn ngàn cái rắc rối để quyết định hành động, đúng lúc, thúc đẩy lịch sử đi và lịch sử tới.

Chỉ trong một khoảnh khắc, một giờ thôi một phút thôi, Ðại tướng Võ Nguyên Giáp hạ một quyết tâm đến nay vẫn cảm thấy kỳ lạ: "Kéo pháo ra ngay!". Khi ấy, toàn bộ nòng pháo chiến dịch đã kéo vào trận địa. Chính khoảnh khắc đó, lại quyết định số phận của một chiến dịch lịch sử, một chiến cuộc lớn nhất của cuộc kháng chiến chống Pháp, quyết định số phận dân tộc ta thuở ấy, nói rộng ra, còn quyết định số phận của phong trào giải phóng dân tộc chống chủ nghĩa thực dân cũ, sánh với Bạch Ðằng, Chi Lăng, Ðống Ða và dẫn tới ngày 30 tháng 4 sau đó.

Ở Liên khu 5, cũng vào thời kháng chiến chống thực dân Pháp, trong chiến cuộc Ðông Xuân 1953 - 1954, với quy mô nhỏ hơn, phạm vi chiến trường hẹp hơn, cũng có một khoảnh khắc như vậy, trong khoảnh khắc ấy, một người anh hùng đã xuất hiện, cùng với một thế hệ anh hùng, tạo nên một bước ngoặt, phối hợp đẹp nhất, hiệu quả nhất với Ðiện Biên Phủ, để lại hùng khí đấu tranh cho cả giai đoạn chiến đấu chống Mỹ xâm lược sau này.

Người anh hùng đó là Nguyễn Chánh.

Thuở ấy, Liên khu 5 bị địch bao vây bốn mặt, mới vượt qua nạn đói dữ dội, ăn cám, ăn khoai, ăn rau, ăn măng mà sống, mới vượt qua vụ Sơn Hà đau đớn do sai lầm của cán bộ ta, coi khinh phong tục tập quán của dân tộc anh em, áp đặt  lên dân tộc anh em những kiểu cách sống mình thích, những lề lối làm ăn mình muốn, những điệu thức tâm linh mà mình sùng bái. Thực dân Pháp với sự can thiệp ngày càng sâu của đế quốc Mỹ, đang thực hiện mưu mô củng cố chiến trường phía nam, giành lại chủ động ở chiến trường phía bắc, thực hiện một kế hoạch táo tợn mà chúng gọi là kế hoạch Nava.

Ðể thực hiện kế hoạch bước 1, tháng 12 năm 1953, Pháp đưa đến Nam Trung Bộ binh đoàn cơ động số 10 từ Pháp mới sang, bình đoàn cơ động 100 từ chiến trường Nam Triều Tiên về, binh đoàn số 11 và 21 từ Bình Trị Thiên vào và Nam Bộ ra, hợp cùng binh đoàn 41, 42 và các tiểu đoàn độc lập đã bố trí tại chỗ, hình thành một lực lượng tập trung 40 tiểu đoàn.

Ngày 20-1-1954, địch nổ súng đánh chiếm Tuy Hòa và Phú Yên.

Phần ta, trong tay Bộ Tư lệnh Liên khu 5 có hai trung đoàn chủ lực, một số trung đoàn địa phương và tỉnh đội không thể tác chiến tập trung cấp trung đoàn mà phải và chỉ có thể tác chiến phân tán từng tiểu đoàn, đại đội.

Chỉ thị của Trung ương là: Nhiệm vụ bảo vệ vùng tự do thì giao cho lực lượng vũ trang địa phương đảm nhiệm. Còn trong Ðông Xuân này, Liên khu 5 cần tập trung lực lượng tiến công lên Tây Nguyên, phát triển lên Tây Nguyên, phải coi là nhiệm vụ quan trọng thứ nhất; nhiệm vụ bảo vệ, củng cố vùng tự do là nhiệm vụ quan trọng thứ hai.

Thế đấy, có ai giấu được nỗi băn khoăn? Trong tập thể lãnh đạo Liên khu và trong từng chiến sĩ, trong từng người dân, suốt chín năm được sống ở vùng tự do, một vùng tự do kỳ lạ, tồn tại giữa vòng vây bốn phía của kẻ thù, các lớp bổ túc công nông, các mái trường trung học, tiểu học, trường bình dân học vụ, một xã hội học tập đầm ấm, một hệ thống đường sắt chạy bằng xe goòng, địch phá thì ta làm lại, các xưởng dệt vải xita, xưởng làm xà-phòng, dầu dừa, giấy tự túc, đúc lựu đạn, làm súng SKZ, dập đạn ÐAM, với đồng tiền riêng, bệnh viện bệnh xá, các đoàn văn công, đoàn tuồng, máy in, báo chí, đài phát thanh, một "Nhà nước thu nhỏ", viết lên ba chữ Ðộc lập, Tự do, Hạnh phúc ngạo nghễ.

Có đồng chí cấp cao có ý đề nghị với Trung ương rút bớt yêu cầu chiến dịch Ðông Xuân 1953 - 1954 cho Liên khu 5. Nhiều ngưòi đặt vấn đề ngược lại: Bảo vệ vùng tự do là nhiệm vụ hàng đầu, tiến công lên Tây Nguyên là nhiệm vụ thứ hai.

Người cầm súng, người dân công và các bà mẹ chiến sĩ nói một cách đơn giản: Lúa gạo ở đồng bằng không giữ lấy mà ăn, lại vác súng lên núi tỉa bắp, đào củ mài. Ngày nay, vẫn còn giữ được những bức ảnh chụp vội những đoàn dân công chân không, gáo dừa, ống muối vượt qua những dặm đường rừng tải gạo, tải đạn theo bộ đội đi về hướng tây. Chân đi mà lòng ứa lệ. Hàng vạn gia đình, em hậu phương anh tiền tuyến. Hàng vạn bà mẹ chiến sĩ, thương yêu người lính như cháu, như con rứt ruột đẻ ra. Bỏ vùng tự do cho địch giày xéo, sao đành, sao nỡ?

Nguyễn Chánh kiên trì giải thích trong Liên khu ủy và Quân khu ủy. Ông tập trung bồi dưỡng một đội ngũ phái viên đi xuống các tỉnh và đơn vị, nói rõ tấm lòng của Trung ương và Liên khu. Tấm lòng ấy là tấm lòng kiên định trong những tình  huống phức tạp. Hội nghị cán bộ chiến dịch, Nguyễn Chánh nghiêm nghị và ân cần: Ai cũng muốn bảo vệ vùng tự do vốn là chiếc nôi nuôi lớn chúng ta suốt chín năm trường. Nhưng hoàn cảnh này, cách bảo vệ vùng tự do tốt nhất là tập trung hết chủ lực tiêu diệt địch ở Tây Nguyên, giải phóng Bắc Tây Nguyên, rồi tiếp tục phát triển. Có Bắc Tây Nguyên và Tây Nguyên, thì rồi sẽ bảo vệ được vùng tự do yêu quý.

Ðêm 27-1-1954, lúc đầu dự định chỉ đánh cứ điểm Măng Ðen. Nhưng sau đó, trong tình hình phần lớn lực lượng cơ động của địch tập trung ở đồng bằng, Nguyễn Chánh đã quyết định đánh luôn cứ điểm Kon Brẫy, Măng Bút, đập tan cụm phòng thủ then chốt của địch ở Bắc Kon Tum. Trước đó một đêm, trên đường 19, ngày nay đã thành huyền thoại, cùng một lúc tiêu diệt ba cứ điểm Kà Tung, Ba Bã Kà Tu, Búp Bê. Sau đó, ta tiêu diệt hệ thống cứ điểm ở ngã ba đường 19 và 19 bis; cứ điểm Blây Cần, Krông Kà Tu và Ðắc Ðoa. Ðịch tìm cách đóng lại Ðắc Ðoa.

Ðứng trước tình hình bị tiến công dồn dập, quân cơ động Pháp bị dàn mỏng, thị xã Plây Cu bị uy hiếp, bộ chỉ huy quân Pháp buộc phải rút bỏ Kon Tum, đưa quân về phòng thủ đường 19 và Nam Tây Nguyên. Ngày 7-2-1954, nghĩa là sau 11 ngày mở chiến dịch, thị xã Kon Tum và toàn tỉnh Kon Tum rộng hơn 14 nghìn ki-lô-mét vuông với 200 nghìn dân hoàn toàn giải phóng.

Bộ Tổng Tư lệnh nhận được tin thị xã Kon Tum giải phóng, đồng chí Tổng Tư lệnh điện hỏi: Có đúng không?

Nguyễn Chánh trả lời: Tôi đang ở tại thị xã Kon Tum giải phóng.

LỊCH sử là một pho tiểu thuyết dài, mấy ngàn, mấy vạn tập. Sau khi làm cuộc giáo dục tư tưởng thắng lợi, như thường lệ, Nguyễn Chánh họp Ðảng ủy Quân khu thông qua phương án tác chiến. Nguyễn Nên, Phó Tư lệnh Quân khu đề nghị được trình bày phương án của ông ta trước. Ông ta đồng ý đưa toàn bộ chủ lực lên Tây Nguyên. Nhưng phải tập trung cả hai trung đoàn chủ lực đánh thẳng vào thị xã Kon Tum, giải phóng ngay Kon Tum. Nguyễn Chánh ngồi nghe chăm chú, một bàn tay để lên trán. Vầng trán rộng. Khi Nguyễn Nên trình bày xong, Nguyễn Chánh đề nghị Bộ Tham mưu trình bày phương án Bộ Tham mưu chuẩn bị. Phương án của Bộ Tham mưu khác hẳn phương án của Nguyễn Nên, không phải tập trung từ ban đầu tiến công giải phóng Kon Tum mà phải, trước hết tiêu diệt cụm cứ điểm mạnh do lính Âu Phi đóng giữ trong tuyến phòng ngự then chốt phía bắc Kon Tum. Nguyễn Nên vung tay cãi, rồi xé ngay bản phương án của ông ta trước mặt Nguyễn Chánh và mọi người.

Khi tiêu diệt xong Măng Ðen, Kon Brẫy, Măng Bút và một số cứ điểm khác, Nguyễn Nên trốn chạy khỏi khu vực cơ quan. Sau này ta biết được Nguyễn Nên vẫn giữ kín một vật làm tín hiệu liên lạc với một số cha cố phản động. Nguyễn Nên định chạy vào Kon Tum.

Với con mắt nhìn đời sâu sắc, Nguyễn Chánh đã dự cảm được một điều gì đấy sẽ xảy ra. Lúc phân công Bộ Tư lệnh, ai đi tiền phương, ai ở lại Sở chỉ huy cơ bản để chỉ đạo tác chiến bảo vệ vùng tự do, Nguyễn Chánh thông báo ý định của Tư lệnh Liên khu là ông Nguyễn Ðôn, Tham mưu trưởng và ông Nguyễn Quyết, Chủ nhiệm Chính trị, sẽ trụ lại ở Sở chỉ huy cơ bản, còn Nguyễn Chánh đi với đội hình chiến dịch, làm Tư lệnh kiêm Chính ủy chiến dịch. Nguyễn Nên cùng đi làm phó Tư lệnh chiến dịch.

Cùng với người anh hùng bao giờ cũng có một thế hệ anh hùng. Tiểu đoàn 50 ráo riết truy lùng, cũng vất vả như tác chiến, đã bắt được Nguyễn Nên.

Trận Măng Ðen là trận đầu chiến dịch. Quả bộc phá 20 kg không phá được bờ tường đất cao và dày. Xung kích không vào được trận nội. Trận đánh phải kéo dài. Ðã có ý kiến: Gần sáng rồi, phải rút ra, đào công sự, thực hành bao vây rồi tối mai đánh tiếp. Nguyễn Chánh không đồng ý, chỉ thị phải tiếp đánh trong đêm, tiêu diệt bằng được cứ điểm Măng Ðen. Vào lúc đó có người đã dao động. Ðột nhiên, ở hướng Tiểu đoàn 79, tiểu đội Võ Cát, lao lên đánh bộc phá liên tục, mở tung 10 lớp hàng rào dây thép gai và lao vào trận nội, kẹp tiểu liên và ném lựu đạn, đánh gần.

Khi biết được Tiểu đội Võ Cát đột phá, từ mũi chủ yếu tôi băng qua hướng ấy. Trước mắt tôi, lúc ấy trời đã sáng dần, mỗi hàng rào là một người anh hùng ngã xuống. Ðường đột phá đó là một con đường máu. Võ Cát cũng hy sinh khi đánh trong trận nội. Chưa vợ, chưa con, quê ở Bình Ðịnh.

Còn ở Ðắc Ðoa, sau khi địch đã củng cố lại đồn Ðắc Ðoa, ta tiến công hai trận liên tiếp đều không thành. Trận thứ ba, Tiểu đoàn 365 đánh Ðắc Ðoa trong một đêm rằm, rằm tháng riêng, trăng sáng, vằng vặc, như ban ngày.

Nguyên Ngọc được phân công bám theo trận chiến sinh tử ấy. Nguyên Ngọc viết những dòng nóng hổi như sau:

Pháo giã mỗi lúc một dữ dội. Chúng tôi thấy Lê Công Khai từ phía sau vượt lên trước. Một dòng máu từ trên thái dương phải anh chảy xuống, thấm vạt áo trước ngực.

Anh dẫn Tiểu đội trưởng Nhường lên hàng rào thứ nhất:

- Ðây, bộc phá vào đây!

Một bầy đạn đại bác sàn sạt bay tới.

Chỗ Nhường vừa đứng, chỉ còn một hục đất sâu, nóng hổi. Cả tiểu đội Nhường hy sinh.

Khai xắn tay áo lên, anh quay lại phía sau, dẫn tiểu đội bộc phá thứ hai, rồi thứ ba.

Tiểu đội bộc phá thứ hai đội mưa đại bác, ào lên phá tung được hàng rào thứ nhất. Cũng vừa lúc đó, đại bác bắn đúng vào giữa tiểu đội. Tiểu đội ấy, chỉ còn một người, bị thương. Khai cũng ngã xuống, một mảnh đại bác cắt nghiến chân phải của anh.

Một lát, khiêng thương luồn qua mưa đại bác chạy tới. Khai quát:

- Lùi lại phía sau! Tiểu đội ba đâu?

Với chiếc chân còn lại, anh bò tới.

- Báo cáo, tiểu đội ba có mặt!

Khai nắm tay Tiểu đội phó Lại:

- Nằm đây! Hễ dứt đại liên là chạy lên ngay. Ðánh vào chỗ kia. Vào chỗ cây chè kia, thấy rõ chưa?

Hàng rào thứ hai bị xé tung.

Bọn giặc trong đồn liều mạng, dựng đứng khẩu cối 120 ly lên mà bắn, đạn rơi sát ngay chân tường. Chúng tôi quét được hàng rào thứ ba sau bốn đợt bộc phá, nhưng đến đây bị khẩu đại liên địch chặn đứng lại. Khai hỏi nhỏ:

- Tiểu đội đồng chí mấy người?

- Báo cáo, còn hai người.

Im lặng một lát rồi Khai nói:

- Còn một người cũng đánh! 20 cân chuẩn bị... theo tôi! Khai nhổm dậy. Bỗng anh ngã quỵ xuống. Một viên đại liên bắn nát chân thứ hai của anh. Ánh trăng phụt tắt.

Lúc Khai tỉnh dậy, chung quanh anh không còn bóng người động đậy nữa. Lại đã nằm đấy, bên cạnh anh, thản nhiên như một giấc ngủ. Rồi có một bóng người cúi xuống gần Khai. Một tiếng gọi:

- Khai! Khai!

Ðêm Tiểu đoàn 365 đánh Ðắc Ðoa, cũng tại cái nhà trực tác chiến, trên chiếc bàn gỗ, một ngọn đèn hột vịt và một chiếc điện thoại thuở xưa, Nguyễn Chánh cùng thức với Khiếu Anh Lân, cán bộ tác chiến, và tôi, cán bộ tuyên truyền phụ trách tờ báo chiến dịch.

Khiếu Anh Lân nói nhỏ: -Tình hình xem chừng rất khó khăn. Trăng sáng quá!

Ông Chánh:

- Ừ, trăng rất sáng.

Khiếu Anh Lân:

- Ðơn vị đột phá bị chặn ngay trên đường mở. Anh Thái, Chính ủy trung đoàn, muốn báo cáo với anh.

Nguyễn Chánh cầm lấy ống nghe. Sau đó chúng tôi nghe tiếng Nguyễn Chánh.

- Anh Thái, cho tôi gặp anh Hàm.

Anh Phan Hàm là Trung đoàn trưởng. Tiếng Nguyễn Chánh:

- Anh Hàm! Tiểu đoàn 365 của anh, rút lui hôm nay, có thể còn lại mấy trăm người, nhưng Tiểu đoàn 365 lại không còn nữa. Tiếp tục trụ lại đánh cho thắng, dù còn mấy chục, nhưng 365 còn mãi. Anh còn dự bị không? Ðưa dự bị vào.

Nguyên Ngọc lại tường thuật, đêm ấy.

Khai nhận ra tiếng chính trị viên Sang. Anh hỏi Sang:

- Ðã sử dụng dự bị chưa?

- Ðang động viên. Cho lên bây giờ.

Khai cố mở mắt ra. Anh hỏi:

- Sang, cậu bị thương rồi à?

Sang không trả lời: Ðầu Sang quấn băng trắng toát. Một quả đại bác lại rít trên đầu. Khai kéo Sang, đẩy xuống cái hố anh đang nằm, rồi chống hai cùi tay, kéo đôi chân gãy nát, anh bò lên phía trước.

Có bóng người lom khom chạy tới.

- Ai đó?

- Báo cáo, đội dự bị.

Một bầy đại bác ập tới vào giữa đội hình đội dự bị. Trong khói đen có bóng người ngồi dậy, bóng Khai. Một cánh tay anh đưa lên, và dõng dạc, dõng dạc lạ thường một tiếng gọi:

- Những đảng viên Cộng sản đâu!

Tiểu đội đầu tiên của đội dự bị chỉ còn có một người. Người đó là Hoàng. Hoàng chùi vết máu trên mặt, trả lời:

- Có!

Khai đưa quả 20 cân cho Hoàng và chỉ nói một tiếng:

- Ðây!

Hoàng chạy lên. Tiếng nổ của bộc phá 20 cân át cả các tiếng súng lớn nhỏ. Khai thấy rõ chiếc lô cốt lớn quỵ xuống. Rồi xung kích, xung kích lướt lên, bay vụt qua cửa mở.

Một người nào đó đến bên Khai, băng vết thương mới ở ngực cho anh. Anh nói:

- Bắn pháo hiệu đỏ! Báo cáo về Ðảng ủy, trận nội đã bắt đầu!

Anh nhắm mắt lại. Anh thấy một phát pháo hiệu đỏ vụt lên trên nền trời đầy trăng, nhưng có lẽ chỉ là thấy trong mơ.

Nguyễn Chánh là một vị tướng tài. Tài năng hiếm có ấy bắt nguồn từ lòng kiên định trong những tình huống phức tạp. Sự kiên định trong những tình huống đó làm nảy nở tài trí, thu phục được lòng ngưỡng mộ của người đời, tập trung dẫn dắt một thế hệ bền lòng hy sinh theo tiếng gọi của Nguyễn Chánh. Tiếng gọi ấy cũng là tiếng gọi của tâm hồn họ, hồn nhiên, bình thường và vĩ đại như chính họ. Lê Công Khai quê ở Thanh Hóa, mặc bộ áo quần mầu chàm khi Nam tiến, trinh nguyên như cách mạng thuở ban đầu. Một bà mẹ binh sĩ ở Phú Yên nuôi anh.

Vậy con người sinh ra, phải chăng đã hoàn thiện?

Ít ỏi lắm, hầu như không có. Tôi không mộng ước con người sinh ra đã hoàn thiện. Con người chỉ trưởng thành và hoàn thiện dần, trong đấu tranh. Nhờ tự vấn. Tôi ngưỡng mộ những người biết tự vấn mà lớn lên, mà đi tới.

CÁC bậc lão thành kể rằng: Việc đầu tiên của những đảng viên mới bị địch bắt vào nhà tù Buôn Ma Thuột là tự vấn, tự phê  bình và phê bình đoạn đường của mình ở ngoài đời. Không ai bắt buộc cả. Chỉ lòng mình bắt buộc. Thế mà rất trung thực, rất sòng phẳng, nhìn thẳng vào chính mình, phê phán chính mình, dù đau đớn đến mấy, dù phũ phàng đến mấy.

Còn lương tâm, đạo đức thì còn lòng kiên định. Phải chăng nhờ tự vấn mà Nguyễn Chánh vượt qua cái bối rối, nhùng nhằng, tính toán, vượt qua cái hạn chế của mình. Ðời ông, từ mốc này lên một mốc khác, ông bước những nấc thang lương tâm và đạo đức. Thời ấy mỗi lần nghe ông nói, tôi có cảm giác như ông đang tự vấn, đang truyền cho chúng tôi sự tự vấn nghiêm khắc của đời người.

Sau 50 năm ông mất, nhớ ông và thuở ấy, ít đại ngôn, ít hô hào suông, lời nói thiệt thà, việc làm róng riết, đẹp thế, can trường thế, đồng chí và đồng đội thế.

---------------------------

(*) Ý thơ Chế Lan Viên

Có thể bạn quan tâm