Thực hiện các chính sách hỗ trợ bảo vệ môi trường

Việc xử lý, cải tạo các bãi chôn lấp chất thải rắn sinh hoạt được xác định là một hoạt động quan trọng trong công tác bảo vệ môi trường ở các địa phương. Tuy nhiên, việc xử lý, cải tạo các bãi chôn lấp hiện còn gặp không ít khó khăn, hạn chế về đất đai, vốn đầu tư, thuế, phí và lệ phí để khuyến khích các tổ chức, cá nhân mạnh dạn đầu tư vào hoạt động này.
0:00 / 0:00
0:00
Ảnh minh họa. (Ảnh: CHẤN HƯNG)
Ảnh minh họa. (Ảnh: CHẤN HƯNG)

Cùng với các hoạt động phát triển kinh tế-xã hội, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhất là quá trình đô thị hóa và sự gia tăng dân số đang đặt ra những áp lực lớn đối với môi trường, đặc biệt là trong quản lý chất thải rắn sinh hoạt.

Theo số liệu của Bộ Tài nguyên và Môi trường, tổng khối lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh tại các địa phương trên cả nước khoảng 67.877 tấn/ngày, cụ thể: khu vực đô thị phát sinh khoảng 38.143 tấn/ngày; khu vực nông thôn khoảng 29.734 tấn/ngày.

Tỷ lệ chất thải rắn sinh hoạt được thu gom, xử lý tại đô thị trung bình khoảng 96,6% và khu vực nông thôn trung bình khoảng 77,69%, trong đó tỷ lệ chôn lấp khoảng 64%. Hiện cả nước có 1.322 cơ sở xử lý chất thải rắn sinh hoạt, gồm 381 lò đốt chất thải rắn sinh hoạt, 37 dây chuyền chế biến compost, 904 bãi chôn lấp, trong đó chỉ có khoảng 20% là bãi chôn lấp hợp vệ sinh, còn lại là các bãi chôn lấp không hợp vệ sinh hoặc các bãi tập kết chất thải cấp xã.

Trước thực trạng nêu trên, những năm qua, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã phối hợp các bộ, ngành, địa phương tổ chức rà soát, đánh giá, đề xuất lựa chọn công nghệ xử lý chất thải rắn sinh hoạt phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam, theo phương châm giảm tỷ lệ chất thải phải chôn lấp, tăng chất thải được tái chế, tái sử dụng.

Đến nay cả nước có 59 tỉnh, thành phố phê duyệt quy hoạch chất thải rắn trên địa bàn; gần 100% số xã hoàn thành việc lập, phê duyệt quy hoạch nông thôn mới, trong đó đều đã xác định vị trí điểm trung chuyển, điểm tập kết rác hoặc bãi chôn lấp quy mô nhỏ; 43 tỉnh, thành phố có kế hoạch xử lý rác thải tập trung ở nông thôn, trong đó có một số địa phương triển khai trên phạm vi toàn tỉnh.

Ngoài ra, hiện nhiều nơi tại các vùng nông thôn đang có xu hướng đầu tư đại trà lò đốt chất thải sinh hoạt ở tuyến huyện, xã. Đây là giải pháp tình thế góp phần nhanh chóng giải quyết vấn đề xử lý chất thải rắn sinh hoạt hiện đang tồn đọng tại khu vực nông thôn. Song thực tế cho thấy, nếu những lò đốt này không đáp ứng được yêu cầu kỹ thuật trong quá trình vận hành sẽ dẫn đến việc phát sinh ô nhiễm thứ cấp, phát thải các khí độc hại vào môi trường, nhất là phát thải dioxin và furan.

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Đình Thọ, Viện trưởng Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi trường) cho rằng: Trong những năm gần đây, Việt Nam đã chứng kiến sự phát triển nhanh chóng của kinh tế-xã hội cùng quá trình đô thị hóa và gia tăng dân số, kéo theo gia tăng khối lượng, chủng loại chất thải rắn sinh hoạt. Điều này dẫn đến nhiều bất cập trong thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải rắn sinh hoạt, trong đó phương thức chôn lấp không hợp vệ sinh vẫn đang là chủ yếu.

Hiện cả nước vẫn còn 116 bãi rác thuộc đối tượng cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, việc xử lý và cải tạo các bãi chôn lấp này đòi hỏi đầu tư lớn về đất đai, nguồn vốn đầu tư. Ngoài ra, công tác xã hội hóa, khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư xây dựng các công trình xử lý chất thải rắn sinh hoạt đang gặp khó khăn, chưa đạt được kết quả như mong đợi, nhất là trong việc vay vốn và trả nợ vốn.

Nguồn thu phí xử lý chất thải rắn do địa phương cam kết chỉ bảo đảm khoảng 30% chi phí xử lý hằng năm, mức phí vệ sinh môi trường còn thấp; doanh thu từ các sản phẩm tái chế như làm phân compost, sản xuất nhựa tái chế... hiện khá thấp và không ổn định.

Theo Tiến sĩ Hồ Công Hòa (Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương), Việt Nam đã có những chủ trương ưu đãi trong việc cải tạo bãi chôn lấp như: Ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp (giảm 50% thuế); miễn thuế nhập khẩu, miễn nộp lệ phí trước bạ; ưu đãi thuế sử dụng đất; chuyển giao công nghệ, cho vay vốn với lãi suất ưu đãi...

Tuy nhiên, các ưu đãi vẫn chưa được cụ thể hóa bằng các quy định của các bộ, ngành, địa phương đối với từng dự án, nhất là các dự án phải di dời bãi chôn lấp khiến cho việc triển khai còn gặp nhiều khó khăn. Trong khi đó, ông Michael Siegner- Đại diện thường trú Viện Hanns Seidel Foundation (HSF) tại Việt Nam đến từ Cộng hòa Liên bang Đức nhận định: Quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa tại Việt Nam đang diễn ra rất nhanh, đóng góp đáng kể vào tăng trưởng kinh tế.

Tuy nhiên, khi các thành phố phát triển, các thách thức về môi trường cũng trở nên phức tạp hơn bao giờ hết, đặc biệt là các bãi chôn lấp chất thải rắn đã lỗi thời và tính xử lý chưa cao, khiến ô nhiễm không được giải quyết rốt ráo mà còn gây ảnh hưởng đến sức khỏe con người.

Để giải quyết những thách thức này, Việt Nam cần tập trung xây dựng nền tảng chính sách hỗ trợ, đầu tư nâng cao hạ tầng, thiết kế bãi chôn lấp, xử lý chất thải, bằng các công nghệ hiện đại cũng như áp dụng kinh tế tuần hoàn biến rác thải trở thành tài nguyên, giảm thiểu sự ô nhiễm đến các bãi chôn lấp; tăng cường sự hợp tác của các doanh nghiệp trong việc nỗ lực thực hiện các quy định, chính sách của Nhà nước về bảo vệ môi trường, nhất là vấn đề xử lý chất thải rắn sinh hoạt; tiếp tục tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận, áp dụng và tiến tới làm chủ công nghệ hiện đại, vừa mang lại nguồn thu để tái đầu tư và bảo đảm an ninh môi trường quốc gia.

Đồng quan điểm nêu trên, Tiến sĩ Hồ Công Hòa đã đưa đề xuất về các giải pháp ưu đãi, hỗ trợ đầu tư xử lý và cải tạo môi trường bãi chôn lấp chất thải rắn sinh hoạt như: Nhà đầu tư được phép đầu tư xử lý, cải tạo để thu hồi năng lượng hoặc di dời, chuyển đổi mục đích sử dụng đất của các bãi chôn lấp chất thải rắn sinh hoạt theo quy định, phù hợp với quy hoạch.

Bộ Tài nguyên và Môi trường cần nghiên cứu, đề xuất các chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư để khuyến khích, thúc đẩy nhà đầu tư tham gia dự án đầu tư xử lý, cải tạo môi trường bãi chôn lấp; các bộ, ngành, địa phương chủ động cân đối ngân sách thúc đẩy đầu tư công; giải phóng mặt bằng, làm đòn bẩy trong công tác huy động đầu tư tư nhân.

Đặc biệt, cần thiết phải hỗ trợ về thủ tục hành chính, nhất là các thủ tục về phát triển dự án, chuyển đổi mục đích sử dụng đất bãi chôn lấp sang mục đích sử dụng có giá trị sử dụng đất cao hơn, ít ô nhiễm môi trường hơn.