Sức sống mới của đô thị di sản Huế

Quyết định đổi hướng chiến dịch của Khu ủy Trị Thiên giữa hai đợt tiến công giải phóng thành phố Huế trong những ngày cuối tháng 3/1975 đã thu về kết quả toàn thắng, không chỉ về mặt quân sự mà còn cứu được Quần thể di tích Cố đô Huế của triều Nguyễn trước nguy cơ bị tàn phá hơn nữa...
0:00 / 0:00
0:00
Huế trở thành hình mẫu bảo tồn di sản không chỉ ở Việt Nam mà còn trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Huế trở thành hình mẫu bảo tồn di sản không chỉ ở Việt Nam mà còn trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương.

Nửa thế kỷ sau chiến tranh, những di tích cố đô một thuở từng bước được khôi phục, hồi sinh cùng sự phát triển của thành phố, góp phần tạo lập danh xưng mới-đô thị di sản đầu tiên của Việt Nam.

MỘT QUYẾT ĐỊNH KỊP THỜI

Một chiều tháng 3/2025 bên dòng sông Hương, tốp công nhân vẫn miệt mài bên chiếc cầu mang tên chúa Nguyễn Hoàng để kịp thông xe mừng kỷ niệm 50 năm Ngày giải phóng thành phố Huế (26/3/1975-26/3/2025).

Ngược lên phía thượng nguồn, đứng từ đồi Vọng Cảnh thả mắt xuôi Hương Giang, màn tím trên sông phảng phất như khói sương. 50 năm trước, người chiến sĩ cộng sản cắn chặt đầu lá cờ Mặt trận Dân tộc giải phóng miền nam Việt Nam dài 12m bơi vượt sông xuống đồng bằng, kịp sớm ngày 26/3/1975, lá cờ tung bay trong ánh bình minh, báo tin Huế toàn thắng.

Ông Cao Huy Hùng, nguyên Giám đốc Bảo tàng lịch sử Thừa Thiên Huế (nay là thành phố Huế) qua bao nhiêu năm vẫn giữ nguyên cảm xúc dâng trào về thời điểm bấy giờ: “Khi lá cờ lên đến đỉnh kỳ đài, ngoài những đổ vỡ do pháo, xe tăng và bom napan của Mỹ ngụy gây ra từ Tết Mậu Thân (1968) thì nay, dường như cả Kinh thành không bị bong tróc thêm viên gạch nào cả”.

Trên thế giới, phần lớn các cuộc chiến tranh đều kết thúc trong đau thương, đổ nát, nhưng riêng chiến dịch giải phóng Huế nhờ Khu ủy Trị Thiên có quyết định kịp thời cho nên đã hạn chế được điều đó. Huế được bảo vệ để đón hòa bình.

Ông Cao Huy Hùng, nguyên Giám đốc Bảo tàng lịch sử Thừa Thiên Huế (nay là thành phố Huế)

Trang hồi ký của cán bộ lão thành tham gia giải phóng Huế năm 1975 chỉ cho tôi thấy giữa hai đợt tiến quân, Khu ủy Trị Thiên đã triệu tập một cuộc họp bất thường. Họ bày tỏ sự lo ngại địch có thể co cụm ở Huế. Nếu chiến sự diễn ra ở đây thì sẽ vô cùng ác liệt, tổn thất nhiều và thành phố bị tàn phá nghiêm trọng. Lãnh đạo Khu ủy lúc đó phải cân nhắc để tìm một chiến dịch toàn thắng và giúp kinh thành Huế không bị tổn thương hơn nữa.

Kết thúc cuộc họp, cố Trung tướng Lê Tự Đồng, Bí thư Khu ủy Trị Thiên đã vạch ra kế hoạch: “Tốt nhất là nên bao vây chia cắt địch mà tiêu diệt từ bên ngoài thành. Vả lại trong lúc này giết địch ngoài công sự có nhiều thuận lợi cho ta. Nếu đường 1 bị cắt, địch chỉ còn một cách là chạy ra đường biển, hoặc bị tiêu diệt hoàn toàn”.

Từ tính toán nêu trên, lãnh đạo Khu ủy quyết định đổi hướng chiến dịch, mở thêm mặt trận ở phía nam, tây nam. Kết hợp với mũi tiến công từ hướng bắc, tây bắc, đặt thành phố Huế vào giữa hai phòng tuyến của ta để bảo vệ. Sáng 25/3/1975, Hải Lăng được giải phóng, bộ đội ta tiến thẳng vào Huế, phá vỡ tuyến phòng thủ của địch ở phía bắc thành phố.

Từ hướng tây, tây nam, các mũi tiến công của ta, dưới sự hỗ trợ của xe tăng Quân đoàn II đã đồng loạt nổ súng thực hiện đúng ý đồ chiến dịch, quân địch bị hút ra ngoài thành phố. Ta cắt đứt đường số 1, địch không còn đường để rút lui, buộc phải chạy vòng về hướng cửa biển Thuận An, Tư Hiền. Rạng sáng 26/3/1975, điểm kháng cự cuối cùng của địch ở Tư Hiền bị tiêu diệt. Huế được giải phóng.

Ông Cao Huy Hùng kể: “Trên thế giới, phần lớn các cuộc chiến tranh đều kết thúc trong đau thương, đổ nát, nhưng riêng chiến dịch giải phóng Huế nhờ Khu ủy Trị Thiên có quyết định kịp thời cho nên đã hạn chế được điều đó. Huế được bảo vệ để đón hòa bình”.

CUỘC SỐNG MỚI BẮT ĐẦU

Sau 50 năm, từ ngày Huế im tiếng súng, tôi đi thuyền, thả trôi trên sông Hương để tận hưởng bầu không khí yên bình. Gió từ mặt sông mang theo mùi hương rất dịu. Dù không phải hứng chịu bom đạn trong những ngày cuối cùng của chiến tranh, nhưng Huế vẫn bị tổn thương rất nặng từ các cuộc giao tranh vào những năm trước đó. Trước sự xuống cấp của hệ thống di tích cung đình Huế, từ những năm đầu 1980, Huế phối hợp các tổ chức văn hóa để thống kê, lập danh mục bảo vệ. Một năm sau, tổ chức UNESCO ra lời kêu gọi cứu nguy khẩn cấp. Đáp lời hiệu triệu, bạn bè của Việt Nam đã cùng chung tay. Đến năm 1993, Quần thể di tích Cố đô Huế được công nhận là di sản thế giới.

Từ đó đến nay, thêm nhiều hạng mục, di tích ở kinh đô Huế được đầu tư, nghiên cứu, phục dựng. Càng ngày, các công trình trùng tu càng hướng về tính chính xác hơn, do nhận được nhiều nguồn tư liệu từ bạn bè năm châu. Huế trở thành hình mẫu bảo tồn di sản không chỉ ở Việt Nam mà còn trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương.

Với tám di sản vật thể và phi vật thể đã được công nhận di sản thế giới, cánh cửa phát triển du lịch mở ra với Huế. Huế đã tiến một bước dài khi trở thành di sản của thế giới. Nhưng thành phố đi được nhiều bước hơn trong hành trình hướng đến phát triển bền vững.

Một trong những việc đó là việc được Trung ương hỗ trợ xây dựng đập ngăn mặn Thảo Long, chấm dứt tình trạng người dân phải uống nước lợ vào mùa hè và ngành nông nghiệp bỏ vụ hè thu vì không chủ động được nước tưới. Sau đó, Trung ương cũng cho xây hồ Tả Trạch phía thượng nguồn để cắt lũ, giảm thiệt hại về người, di sản ở hạ lưu. Đặc biệt, Huế đã tiến hành di dời hơn 1.000 hộ dân vạn đò lên bờ. Gần 5.000 hộ dân sống trên bề mặt di tích Thượng Thành, Eo Bầu cũng được đưa ra khỏi phạm vi di tích.

Tình trạng ô nhiễm môi trường được khắc phục. Cảnh quan di sản được phục hồi. Thành phố được chỉnh trang. Các không gian xanh dọc sông Hương thơ mộng góp phần làm nổi bật giá trị thẩm mĩ của Quần thể di tích Cố đô Huế. 50 năm là khoảng thời gian dài. Trong cuộc họp báo trước ngày trở thành thành phố trực thuộc Trung ương, ông Nguyễn Thanh Bình, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế trước đây chia sẻ: Thời gian qua, Huế đã biến di sản thành “hạt nhân” để phát triển đô thị. Sự quan tâm toàn diện từ chính quyền, cộng đồng và quốc tế đã giúp Huế hướng đến việc trở thành đô thị di sản đầu tiên của Việt Nam, một minh chứng cho khả năng kết hợp giữa lịch sử và hiện đại”.