Công cụ đầu tư quan trọng của chính phủ các nước
Theo Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, sau 35 năm tiến hành Đổi mới, 30 năm thực hiện cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn còn những tồn tại, hạn chế và tiềm ẩn nhiều rủi ro, nguy cơ tụt hậu còn lớn; các yếu tố nền tảng để đưa Việt Nam sớm trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại còn thấp so với yêu cầu; tăng trưởng GDP có xu hướng chững lại, nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình và tụt hậu xa hơn về kinh tế vẫn còn là thách thức lớn.
Trong bối cảnh đó, để hiện thực hóa mục tiêu đến năm 2030 Việt Nam là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước, trở thành nước phát triển, thu nhập cao được đề ra tại Đại hội lần thứ XIII của Đảng, việc huy động tối đa và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển, đặc biệt nguồn lực tài chính, tạo động lực thúc đẩy nền kinh tế nhanh chóng bứt phá mạnh mẽ có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.
Từ kinh nghiệm quốc tế cho thấy, đây là thời điểm thích hợp để Việt Nam hình thành quỹ đầu tư quốc gia, sử dụng nguồn vốn nhà nước đầu tư tăng cường quy mô và chất lượng danh mục tài sản của Nhà nước, qua đó bổ sung nguồn thu quan trọng cho ngân sách, góp phần tăng sức chống chịu, ổn định thị trường tài chính, khôi phục những thiệt hại do khủng hoảng, bảo đảm an toàn, an ninh tài chính quốc gia, tạo động lực thúc đẩy kinh tế phát triển.
Mô hình quỹ đầu tư quốc gia phổ biến trên thế giới hiện nay có hai loại bao gồm mô hình quản lý quỹ và mô hình công ty đầu tư
Về mô hình quản lý quỹ: chủ sở hữu của tài sản (thông thường là Bộ Tài chính) đưa ra yêu cầu về chính sách đầu tư cho đơn vị quản lý tài sản. Đối với mô hình này có 3 nhóm: Ngân hàng Trung ương quản lý tài sản (như Na Uy, Botswana và Chile); đơn vị quản lý quỹ độc lập do Chính phủ thành lập để quản lý tài sản (như Công ty quản lý đầu tư chính phủ - GIC của Singapore); đơn vị quản lý quỹ tư nhân bên ngoài quản lý tài sản.
Về mô hình công ty đầu tư, ở mô hình này chủ sở hữu của tài sản thành lập một công ty đầu tư và chuyển quyền sở hữu tài sản cho công ty đầu tư. Mô hình này thông thường được áp dụng với các quỹ mà ở đó chiến lược đầu tư của quỹ là tập trung vào những khoản đầu tư/ngành/lĩnh vực cốt lõi và quỹ thực hiện quyền cổ đông một cách chủ động đối với các khoản đầu tư tại doanh nghiệp hoặc quỹ có mục tiêu đầu tư phát triển ngoài mục tiêu về hiệu quả tài chính.
Trong các quốc gia trên thế giới, có thể thấy Singapore là điển hình cho thành công của mô hình quỹ đầu tư quốc gia với GIC và Temasek.
Người dân Singapore được hưởng lợi từ các khoản đầu tư của GIC, Temasek, bổ sung vào ngân sách hàng năm thông qua khoản đóng góp lợi nhuận đầu tư ròng. Trong năm tài chính 2019, giá trị khoản đóng góp lợi nhuận đầu tư ròng này ước tính trị giá 17 tỷ đô la Singapore, cho phép Chính phủ đầu tư dài hạn vào việc nâng cao chất lượng sống người dân, giáo dục, R&D, chăm sóc sức khỏe và cải thiện môi trường….
Với thể chế chính trị khác nhau, bản chất nhà nước khác nhau thì cơ chế vận hành và cách thức quản trị của mỗi quốc gia cũng khác nhau. Kinh nghiệm về mô hình quỹ đầu tư quốc gia ở các nước trên thế giới cho Việt Nam bài học trong việc hình thành Quỹ đầu tư Chính phủ nhằm rút ngắn con đường phát triển và hạn chế các rủi ro, thất bại, trong đó mô hình quỹ đầu tư quốc gia của Singapore được xem như là mô hình phù hợp nhất với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Những tiền đề quan trọng
Quan điểm của Đảng trong việc củng cố nền tài chính quốc gia được nêu rõ tại Chiến lược Phát triển kinh tế xã hội 2021-2030 trình Đại hội Đảng XIII, cụ thể: “Cơ cấu lại ngân sách nhà nước, bảo đảm nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững; tiếp tục cơ cấu lại thu, chi ngân sách nhà nước theo hướng tăng tỷ lệ thu nội địa, tăng tích lũy từ ngân sách nhà nước cho chi đầu tư phát triển; tăng sức chống chịu, bảo đảm an toàn, an ninh tài chính quốc gia”.
Về vai trò của doanh nghiệp nhà nước, dự thảo Chiến lược Phát triển kinh tế xã hội 2021-2030 nhấn mạnh:“Đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước, đẩy nhanh ứng dụng khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, quản trị theo chuẩn mực quốc tế; đảm bảo doanh nghiệp nhà nước là một lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế nhà nước. Hoàn tất việc sắp xếp lại khối doanh nghiệp nhà nước. Tiền thu được từ cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tập trung đầu tư các công trình kết cấu hạ tầng trọng điểm, quan trọng quốc gia, bổ sung vốn điều lệ cho doanh nghiệp nhà nước then chốt quốc gia. Củng cố, phát triển một số tập đoàn kinh tế nhà nước có quy mô lớn, hoạt động hiệu quả, có khả năng cạnh tranh khu vực và quốc tế trong một số ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế”.
Theo Luật Quản lý sử dụng vốn, Luật Ngân sách Nhà nước hiện nay, nhiều lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước không thuộc đối tượng được Nhà nước tiếp tục đầu tư thêm vốn.
Bên cạnh đó, Quỹ hỗ trợ sắp xếp doanh nghiệp Trung ương đang được kết chuyển về ngân sách nhà nước. Do đó, thực tế phát sinh nhiều trường hợp doanh nghiệp nhà nước cần bổ sung vốn để mở rộng quy mô hoặc ứng phó với tình hình khẩn cấp ngoài kế hoạch thì sẽ không có nguồn vốn để đầu tư, điển hình nhất như trường hợp của Vietnam Airlines vừa qua.
Trong bối cảnh đó, Chính phủ cần có một công cụ, một kênh đầu tư để thực hiện hỗ trợ nhanh chóng, kịp thời và hiệu quả cho các doanh nghiệp. Qua đó bổ sung nguồn thu quan trọng cho ngân sách nhà nước, góp phần tăng sức chống chịu, bảo đảm an toàn, an ninh tài chính quốc gia, tạo động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển, góp phần thực hiện thành công mục tiêu Đại hội XIII của Đảng đề ra.
Sau 15 năm ra đời và phát triển, với quy mô, nguồn lực và kinh nghiệm đã tích lũy được, theo các chuyên gia, Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) đang có những điểm tương đồng nhất định với các quỹ đầu tư quốc gia.
Được thành lập theo Quyết định số 151/2005/QĐ-TTg ngày 20/6/2005 của Thủ tướng Chính phủ và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01/08/2006, SCIC ra đời trong bối cảnh Việt Nam chủ trương đẩy mạnh sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp nhà nước.
Từ năm 2020 trở đi, khi danh mục doanh nghiệp bàn giao về SCIC được dự báo sẽ giảm dần cả về số lượng và giá trị, SCIC đã chủ động chuyển trọng tâm nhiệm vụ sang hoạt động đầu tư kinh doanh vốn.
Theo đó, trong chiến lược kinh doanh giai đoạn 2020-2030, SCIC xác định đẩy mạnh, mở rộng hoạt động đầu tư kinh doanh vốn với định hướng rõ nét hơn trên cơ sở tiếp tục tập trung đầu tư vào các ngành, lĩnh vực then chốt có tính chất lan tỏa trong nền kinh tế. Khi tham gia đầu tư, SCIC sẽ đóng vai trò là người cung cấp “vốn mồi” để thu hút vốn đầu tư từ khu vực tư nhân và nhà đầu tư nước ngoài.
Bên cạnh đó, trong giai đoạn 2020-2035, SCIC định hướng đầu tư vào các ngành, lĩnh vực then chốt để tạo động lực, nhân tố mới, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đồng thời từng bước phát triển các hoạt động tư vấn, trước mắt tập trung vào các lĩnh vực có thế mạnh như: quản trị doanh nghiệp, cổ phần hoá, xây dựng chiến lược kinh doanh, thẩm định và đánh giá các cơ hội đầu tư, mua bán, sáp nhập, thoái vốn….
Định hướng đến năm 2030, bên cạnh các hoạt động đầu tư đã thực hiện, SCIC sẽ bổ sung thêm việc tư vấn đầu tư tài chính, mua bán, sáp nhập doanh nghiệp.
Mặc dù vậy, trong thực tế, xét theo vị thế và tầm ảnh hưởng đem lại, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan nên hoạt động đầu tư của SCIC trong thời gian qua vẫn chưa tương xứng với tiềm năng. Vai trò của SCIC với tư cách nhà đầu tư của Chính phủ chưa rõ nét, chưa có tác động lan tỏa trong nền kinh tế như kỳ vọng đặt ra khi thành lập SCIC.
Để thực sự trở thành Quỹ đầu tư Chính phủ, sự chuyển mình của SCIC trong tình hình mới cần được thực hiện nhanh chóng, dứt khoát. Qua đó tạo động lực thúc đẩy nền kinh tế nhanh chóng bứt phá mạnh mẽ, góp phần hiện thực hóa mục tiêu Đại hội lần thứ XIII của Đảng .