Phát triển đông y góp phần chăm sóc sức khỏe nhân dân

Bệnh viện Hương Sơn (Hà Tĩnh) đầu tư hơn 500 triệu đồng lắp đặt một máy sắc thuốc đông y tự động.
Bệnh viện Hương Sơn (Hà Tĩnh) đầu tư hơn 500 triệu đồng lắp đặt một máy sắc thuốc đông y tự động.

Từ xa xưa cha ông ta dùng cây cỏ chung quanh mình để sử dụng trong đời sống hằng ngày, từ đó phát hiện ra những cây để làm thuốc chữa bệnh. Các thế hệ trước đã đúc rút kinh nghiệm các phương pháp chữa bệnh từ đơn giản đến phức tạp, từng bước nâng dần lên thành lý luận, kết hợp tiến bộ của nhân loại, nhất là những triết học, y lý của phương Ðông để hình thành một bản sắc dân tộc là nền đông  y Việt Nam.

Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nền đông y Việt Nam sống lại và phát triển không ngừng. Ðể góp phần vào công cuộc kháng chiến và kiến quốc, từ những ngày đầu cách mạng  mới thành công, Bộ Nội vụ nước ta  ban hành Nghị định cho phép thành lập Hội nghiên cứu nam dược, sau đổi tên là Hội Ðông y cứu quốc. Tiếp đó là Hội Ðông y cứu quốc Nam Bộ, Hội Ðông y cứu quốc tỉnh Quảng Ngãi và Hội Ðông y cứu quốc tỉnh Thanh Hóa được thành lập và sản xuất nhiều loại thuốc phục vụ sức khỏe nhân dân trong chín năm chống thực dân Pháp xâm lược.

Năm 1954, sau khi kháng chiến chống thực dân Pháp thành công, miền bắc hoàn toàn giải phóng, căn cứ vào sắc lệnh số 52 SL ngày 22-4-1946 quy định việc thành lập hội, Bộ Nội vụ ban hành Nghị định số 339 NV-DC-NÐ ngày 3-6-1957 cho tái lập  Hội Ðông y  ở 32 tỉnh, thành phố từ Vĩnh Linh trở ra với bốn cấp hội từ trung ương đến cơ sở. Trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước, để chăm sóc sức khỏe cán bộ, bộ đội, Hội Ðông y  phối hợp Viện Ðông y cử các lương y có nhiều kinh nghiệm sử dụng thuốc nam đến bồi dưỡng cho những người vượt Trường Sơn biết nhận dạng một số cây trong rừng để tự chữa bệnh cho  mình và cho đồng đội. Một số cụ lương  y ở miền nam tập kết ra bắc được trở về nam khi vượt Trường Sơn được giao nhiệm vụ trên đường đi phải sưu tầm cây thuốc để chữa bệnh cho đồng đội.

Khi kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thành công, nước nhà thống nhất, Ban Bí thư T.Ư có Chỉ thị số 118/CT/T.Ư ngày 30-9-1981 về việc củng cố tổ chức và tăng cường công tác của Hội Y học cổ truyền ( Hội Ðông y ) trong giai đoạn mới. Ðối với T.Ư, Hội kiện toàn Ban  chấp hành để đủ sức chỉ đạo hội trong cả nước. Mặt khác,  thành lập  hội ở ba cấp tỉnh, thành phố, huyện, thị xã và phường, xã ở các địa phương.  Ðến nay 61/64 tỉnh, thành phố (trừ Ðác Nông, Hậu Giang, Lai Châu mới chia tách chưa có hội hoạt động) có tổ chức hội hoạt động. 90% huyện, thị  xã, hội đã có tổ chức hội, 80% số xã, phường có tổ chức hội.

Nhiều địa phương  cả ba cấp hội hoạt động có hiệu quả như Hải Phòng,  Hà Nam, Thái Nguyên, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Ngãi, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Dương, Long An, Vĩnh Long.... Ngày đầu mới thành lập có 1.049 hội viên trong quá trình phát triển  số hội viên tăng lên 50 nghìn 700 người trong cả  nước.

Là một tổ chức xã hội nghề nghiệp, 50 năm qua, nhất là trong 20 năm đổi mới,  Hội Ðông y phát  huy thế mạnh của mình là thừa kế, phát huy phát triển nền đông y Việt Nam trong sự nghiệp bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân.

Ðể bồi dưỡng y thuật, y đạo, y đức cho hội viên, những năm qua T.Ư Hội Ðông y xây dựng được chương trình bồi dưỡng lương y chuyên sâu với 3.350 giờ học. Việc bồi dưỡng hội viên ngày càng có chất lượng. Ðến nay, hội tổ chức được 23 lớp học, bồi dưỡng  hơn 2.000 hội viên có trình độ chuyên sâu. Các tỉnh, thành hội tổ chức 1.478 lớp bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho 88.616 lượt hội viên. Số hội viên lương y chiếm 55,9% tổng số cán bộ công chức về y học cổ truyền trong ngành. Các cấp hội xây dựng 30 trung tâm thừa kế ứng dụng đông y, 2.821 trung tâm chẩn trị và 8.306 phòng khám đông y. Ngoài ra còn có 6.804 cơ sở khám, chữa bệnh của hội viên (theo hình thức tư nhân).

Hằng năm các cấp hội khám bệnh điều trị cho khối lượng lớn người bệnh, chiếm một phần ba tổng số người bệnh đến khám, chữa bệnh của ngành  y tế (khoảng 22 triệu lượt người). Ngoài ra,  trong 20 năm đổi mới, các cấp hội tổ chức sưu tầm thừa kế 37 nghìn 785 bài thuốc và 3.103 cây thuốc qúy. Hàng nghìn đề tài cấp cơ sở, 20 đề tài cấp tỉnh và ba đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ cũng đã được hoàn thành.

Nét đáng chú ý, hoạt động  đông y luôn luôn gắn liền với đông dược,  nhờ vậy phong trào nghiên cứu, sưu tầm, thừa kế sử dụng thuốc nam ngày càng  phát triển rộng rãi trong các cấp hội; nhất là các tỉnh ở phía nam như Tây Ninh, Vĩnh Long, Bến Tre, Tiền Giang, Bình Phước, Trà Vinh... 100% số người bệnh đến khám chữa bệnh tại phòng chẩn trị của các cấp hội đều được điều trị bằng thuốc nam.  Phong trào khám bệnh từ thiện của các tịnh xá  tại các tỉnh phía nam và các cấp hội trong cả nước phát triển rộng khắp. Hằng năm các cấp hội tổ chức khám từ thiện cho người bệnh nghèo, gia đình chính sách, đồng bào các dân tộc và cấp hàng triệu thang thuốc miễn phí trị giá hơn 23 tỷ đồng. Một số tỉnh, thành hội còn sưu tầm các bài thuốc, cây thuốc quý của đồng bào dân tộc thiểu số in thành sách để phổ biến rộng rãi trong nhân dân như Lạng Sơn, Thái Nguyên, Bắc Cạn... Sự hoạt động của các cấp hội là chỗ dựa vững chắc của ngành y tế, nhất là y tế phường, xã.

Với những nỗ lực của các cấp hội trong phong trào thi đua yêu nước, 20 năm qua các cấp hội đã được Nhà nước tặng 32 Huân chương Lao động các hạng; 15 Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ; 445 cán bộ hội viên được công nhận là Chiến sĩ thi đua toàn quốc, Chiến sĩ thi đua cấp ngành, cấp tỉnh. Nhà nước phong tặng bảy Thầy thuốc Nhân dân và 57 Thầy thuốc Ưu tú là cán bộ hội viên Hội Ðông y. Trung ương Hội được Nhà nước tặng Huân chương Ðộc lập hạng nhất lần thứ nhất vào năm 1990 và năm Huân chương Lao động.

Có thể bạn quan tâm