Nghệ nhân Nguyễn Văn Sính bận rộn hơn bên các tác phẩm của mình. Ông cho biết vừa đúc thành công "Đại hồng chung" có trọng lượng 31 tấn, cao 5,5 m, đường kính 3,7 m, đây được xem là quả chuông đồng lớn nhất Đông-Nam Á hiện nay.
Đúc được quả chuông này, ông đã phải huy động 65 thợ đúc, nấu và rót liên tục 8 nồi đồng (mỗi nồi 2,5 tấn) trong 6 giờ liên tục. Chỉ cần một chút "sơ sẩy" như bị tràn, hoặc xì đồng ra ngoài khuôn đúc thì công lao của mọi người trong hơn tám tháng trời sẽ trở thành công "cốc".
Để trang trí cho quả chuông này, ông Sính cũng rất công phu, đã cùng các nghệ nhân khắc lên trên đó hai bài kinh Đại Bi - Bát Nhã trong Kinh Phật bằng chữ Hán, cùng nhiều hoa văn trang trí mang chủ đề thiền học và Phật giáo. Quả chuông này trước khi chuyển đến đặt tại khu Di tích Văn hóa lịch sử Trường Yên - Ninh Bình, sẽ được tham gia trưng bày nhân Festival nghề truyền thống Huế 2007.
Ông Nguyễn Văn Sính năm nay đã bước sang tuổi 68, được phong tặng là một trong số năm nghệ nhân dân gian nghề truyền thống ở Huế. Không biết làng nghề ở phường Đúc có từ bao giờ, nhưng theo gia phả ghi lại thì ông là truyền nhân thứ 12 làm nghề đúc đồng theo lối "cha truyền, con nối". Hiện ông Sính còn có hai người con tốt nghiệp đại học, tiếp bước nghề đúc đồng.
Người con trai lớn là Nguyễn Phùng Sơn, tốt nghiệp kỹ sư chế tạo máy, hiện phụ trách cơ sở đúc đồng của ông tại Đồng Nai. Người con trai kế là Nguyễn Trường Sơn chọn ngành đúc nhiệt luyện (Đại học Bách khoa Hà Nội) để học, nay đã tốt nghiệp đại học về theo bố phụ trách cơ sở đúc đồng của gia đình tại phường Đúc.
Ông Sính có biệt tài về đúc chuông. Năm 1971, lúc mới 31 tuổi, ông đã đúc được quả chuông cao 3 m, đường kính 1,35 m, nặng 3 tấn đặt tại Niết Bàn, Tịnh Xá, Vũng Tàu. Nhưng theo nghệ nhân Nguyễn Văn Sính, thành công của quả chuông, không phải đơn thuần ở những chỉ số đã nói ở trên, cái cốt lõi của quả chuông là đánh phải kêu to, vang xa, âm thanh phải hay, thức tỉnh lòng người. Muốn vậy phải có sự tính toán để đạt độ chuẩn xác cao, từ khâu pha trộn hợp kim, nung chảy đồng để rót vào khuôn mẫu...
Ông Sính nổi tiếng từ trong nam ra ngoài bắc không chỉ về đúc chuông, mà còn nổi tiếng về đúc tượng. Ông có các sản phẩm nổi tiếng như tượng Trần Hưng Đạo cao 10,2 m, nặng 21,6 tấn đặt tại công viên Vị Hoàng (Nam Định); tượng Như Lai cao 4,3 m đặt tại chùa Kim Thành - Plây Cu; tượng Bác Hồ đặt tại Kim Liên, và ở Huế; tượng Bác Tôn Đức Thắng tại An Giang. Sản phẩm chuông của ông còn xuất khẩu sang các nước Nê-pan, Ần Độ, Hà Lan, Pháp, Nhật Bản, Mỹ...
Chủ một cơ sở đúc đồng nổi tiếng khác là ông Nguyễn Văn Đệ, năm nay ngoài 70 tuổi, ở đường Bùi Thị Xuân - Huế, hiện nay có hai người con trai theo làm và đã lành nghề đúc đồng. Khác với ông Sính, ông Đệ nổi tiếng trong việc đúc trống đồng. Cha con ông hiện đã đúc thành công chiếc trống đồng có đường kính 60 cm, nặng khoảng 60 - 65 kg cho Bảo tàng Quang Trung (Bình Định).
Ở phường Đúc cũng chỉ còn lại ít người làm được công việc này, vì ngoài khuôn đúc, còn có những "bí truyền" riêng. Ông phân trần: nghề đúc thiệt là gian khó, những trưa hè oi ả bên cạnh lò lửa cháy hừng hực có khi hoa cả mắt, nhưng không được một phút lơ là, nhất là khi đồng được đun chảy để đổ vào khuôn, chính xác đến từng giây. Chỉ bị ngắt nhịp trong tích tắc, lớp này sẽ không kết dính với lớp kia coi như hỏng hết.
Những người thợ phường Đúc tương truyền lại với con cháu: trước đây, khi đúc chín khẩu súng thần công ở Đại Nội, có một khẩu sau khi hoàn chỉnh nâng lên thì gãy đôi. Nguyên nhân do khi rót đồng vào khuôn đã không rót liên tục đồng bị ngắt nhịp. May có người thân trong nội triều xin tha tội "tru di tam tộc", nên con cháu làng nghề mới tồn tại được đến hôm nay.
Những người kể lại sự việc trên vẫn không biết câu chuyện chính xác đến mức nào, nhưng xem đây là lời nhắc nhở hiệu nghiệm nhất cho lớp lớp con cháu của mình từ đời này sang đời khác.
Theo gia phả của dòng họ Nguyễn, làng đúc (nay là phường Đúc) ra đời từ năm 1836 đến nay đã được 171 năm. Ban đầu là một nhóm thợ có nguồn gốc từ Ninh Bình vào phục vụ cho phủ chúa, đúc các ngự dụng trong triều, và đến định cư tại các thôn Kinh Nhơn, Bản Bộ, Trường Đồng, Trường Súng (phường Đúc bây giờ). Lớp thợ kế tục sự nghiệp đúc đồng ngày nay tại phường Đúc thuộc đời thứ 11, 12 của dòng họ Nguyễn.
Ở Huế, còn nhiều hiện vật bằng đồng nổi tiếng được lưu giữ ở Đại Nội, hoặc các vật dụng dùng trong cung vua, phủ chúa ở Bảo tàng cổ vật Huế hiện nay đều có sự góp công, góp sức của những lớp thợ đúc đồng ở phường Đúc. Tiêu biểu như: những chiếc vạc ở Đại Nội (1659 - 1684), khánh chùa Thiên Mụ (1677), chuông chùa Thiên Mụ (1710), cửu vị thần công (1803 - 1804), cửu đỉnh (1835 - 1837), chuông chùa Diệu Đế (1846)...
Các chùa ở Huế có rất nhiều tượng Phật bằng đồng với niên đại thuộc đầu thế kỷ 20. Và gần hơn là tượng chân dung nhà chí sĩ Phan Bội Châu cao 4 mét, đúc năm 1974.
Chủ tịch UBND phường Đúc, ông Phan Văn Phước, cho biết: khắc phục sản xuất theo lối gia đình, "mạnh ai nấy làm", hiện phường đang tổ chức lại làng nghề, kết hợp việc đầu tư phát triển nghề đúc đồng truyền thống với việc xây dựng các điểm tham quan làng nghề theo định hướng phát triển du lịch và dịch vụ du lịch. UBND thành phố Huế đã hỗ trợ đầu tư hơn 3 tỷ đồng để xây dựng và phát triển làng nghề đúc đồng tại phường Đúc, bao gồm việc hỗ trợ phát triển hạ tầng, xử lý môi trường, áp dụng những tiến bộ kỹ thuật mới về khuôn đúc, tìm đầu ra cho sản phẩm.
Hiện nay, toàn phường Đúc có hai HTX và 59 hộ làm nghề đúc đồng, trong đó có 18/35 hộ được chọn làm khu vực vừa sản xuất, vừa sắp xếp tổ chức cho khách tham quan, giới thiệu và mua bán sản phẩm, hàng lưu niệm như: hàng thủ công mỹ nghệ bằng đồng, đồ nghi lễ thờ cúng bằng đồng, chuông đồng, lư đồng...