Nhìn từ trên đỉnh thành Thê-ra (Thera) cổ đại, đường bờ biển là một vệt dài xen kẽ hai mầu đen và xanh thẫm, đẹp hùng vĩ. Hôm ấy tôi ra bãi Ka-ma-ri (Kamari), gần khu vực sân bay, lựa một quãng không người để ghé xem loại cát đen đó thực chất là thứ gì. Bãi biển yên tĩnh đến lặng người, hầu như không có sóng. Phần trên là đá dăm, còn phía sát mực nước biển chỉ toàn sỏi đen. Mỗi lần sóng đưa bờ, tiếng sỏi lại kêu rào rạo. Không phải sóng hát, đá hát hay cây hát mà là sỏi hát.
Từ bãi Kamari, khó khăn lắm tôi mới tìm được đường tới "Ancient Thera", là một thị trấn cổ xưa trước công nguyên nằm trên đỉnh núi. Đặc sản ở Santorini ngoài cát đen thì còn có gió. Những cơn gió ở đây vô cùng đặc biệt. Chúng vần vũ khiến trời đang nắng đẹp cũng hóa thành giông tố, và làm những đám mây sà thấp hơn xuống đỉnh núi. Đỉnh đô thị cổ Thera nằm trên ngọn núi cao thứ nhì Santorini (ngọn cao hơn nằm ngay bên cạnh, nhưng địa hình hiểm trở, chỉ độc một ngôi nhà nhang nhác đài khí tượng). Từ bãi để xe, người ta phải leo bộ một đoạn dốc nữa mới đến quầy soát vé, rồi từ đó leo tiếp lên trung tâm của đô thị cổ. Thera giờ chỉ còn là phế tích, với những con đường ngang dọc xuyên qua thành phố tí hon, những ngôi nhà bằng đá sót lại chân tường, những giếng nước, nhà tắm công cộng, tòa thị sảnh và trung tâm thương mại nằm ở phố chính. Hiếm nước, người Thera đã phải xây những bể chứa nước mưa khổng lồ để dùng dần. Đặc biệt, ngay từ thế kỷ II trước Công nguyên, một nhà hát bằng đá với kiến trúc hình tròn đặc trưng được xây dựng trên đỉnh núi với sức chứa... 1.500 người.
Đứng trên đỉnh núi gió thốc bạt người, với khu dân cư sầm uất từ mấy ngàn năm giờ biến thành những bãi cúc dại vàng rực, tôi ngắm những cột trụ và móng tường còn sót lại, cố gắng hình dung ra những cư dân của Thera lòe xòe những trang phục cổ xưa đi lại trong thành, mua bán, nấu ăn, tắm giặt và trò chuyện. Và tôi huy động trí tưởng tượng tối đa của mình để làm thành một cỗ máy thời gian đi ngược hành lang quá khứ, từ thuở núi Mê-xa Vu-nô (Mesa Vouno) chỉ là một bãi đá trơ trụi lộng gió, trước khi thành phố được xây dựng vào năm thứ 8 trước Công nguyên bởi một tộc trưởng người Đô-ri-an (Dorian) di cư lên đảo tên Thê-rát (Theras). Chỉ có đá mới chịu nổi sức gió khủng khiếp ở nơi ấy.
Có lẽ với sở thích định cư trên tận đỉnh núi, mà phải là đỉnh núi cao, đỉnh trơ trọi và độc lập để chung quanh không có dãy núi trùng điệp nào dính dáng vào, để mở mắt dậy chỉ thấy mây và gió bao phủ, dưới chân là vực sâu, ngước mặt là bầu trời, nên người Hy Lạp mới đặt thế giới của những vị thần lên đỉnh Ô-lim-pút (Olympus). Tư duy này khác với toàn bộ phần còn lại của thế giới, khi mà những nền văn minh đầu tiên luôn cố gắng chọn đồng bằng làm điểm tựa. Người Hy Lạp cổ có lẽ cũng tự coi mình là những vị thần, những sinh thể cao quý, những chủ nhân của thế giới, khi ngự trên những đỉnh cao như thế.