Bảo tàng ngoài trời thuộc Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam là hệ thống trưng bày hết sức độc đáo và hiếm thấy trong hệ thống bảo tàng quốc gia ở Việt Nam. Có thể nói, không gian văn hóa này đã góp phần làm đổi thay diện mạo TP Thái Nguyên, nhất là trong dịp Liên hoan trà Quốc tế vừa qua. Bảo tàng tái hiện di sản văn hóa Việt Nam theo nguyên mẫu qua sáu không gian văn hóa, mở đầu là ngôi nhà của người dân tộc Mông. Ðây là kiểu nhà đất, trình tường, ba gian không chái, vách thưng ván, mái lợp lá tủa chuông, xây dựng theo nguyên mẫu từ ngôi nhà có tuổi gần 100 năm của người Mông Trắng ở huyện Ðồng Văn, tỉnh Hà Giang. Gian giữa ngôi nhà đặt bàn thờ tổ tiên, gian trái đặt bếp lò và là nơi ngủ của chủ nhà; gian bên phải đặt bếp nấu ăn; hai nhà đặt cối xay ngô, cối giã gạo, thùng gỗ để ngâm chàm và dụng cụ dệt vải. Quanh nhà xếp đá làm tường, cổng ra vào bằng gỗ có mái che. Ngôi nhà điển hình cho kiến trúc nhà ở của các tộc người sống trên núi cao, nơi chủ yếu là nương thổ canh hốc đá. Nhiều nơi đồng bào phải gùi đất đổ vào hốc đá để trồng ngô. Mùa nối mùa, ngô mọc xanh tốt. Cuộc sống vất vả nhưng đồng bào vẫn lạc quan. Như bà con vẫn nói "ở đâu có nương lanh thì ở đó có người Mông sinh sống, làm ăn".
Tại không gian văn hóa này, khách tham quan còn được ngắm nhìn nhóm tượng người Mông dắt ngựa xuống chợ. Ðó là một sinh hoạt kinh tế - văn hóa độc đáo ở vùng núi cao, nơi năm, bảy ngày mới có một phiên chợ, và phiên chợ trở thành ngày hội văn hóa. Trên nẻo đường xuống chợ, từng đoàn phụ nữ trong những bộ váy áo đẹp mầu sắc sặc sỡ dắt ngựa thồ hàng rảo bước, những chàng trai Mông vai khoác chiếc khèn, thỉnh thoảng cất lên một làn điệu chân chất, gợi cảm như hương rừng hoa núi: Em không có lòng thì thôi - Có lòng thì ta về ở với nhau... Ngoài chiếc khèn của người Mông, trong kho tàng văn hóa - nghệ thuật dân gian của các tộc người ở vùng núi cao phía bắc còn có cây sáo của người dân tộc Pà Thẻn, sáo mũi của người dân tộc Phù Lá,... mỗi nhạc cụ luôn đem đến cho người nghe những dấu ấn văn hóa đặc sắc của mỗi tộc người.
Trong không gian văn hóa vùng núi thấp và thung lũng, là nơi có địa hình giống "lòng chảo" với nhiều cánh đồng ruộng nước rộng lớn và phì nhiêu, như Thất Khê (Lạng Sơn), Hòa An (Cao Bằng), Mường Thanh (Ðiện Biên), Bạch Thông (Bắc Cạn), Mường Lò (Yên Bái), Mường Than (Lai Châu), Mường Tấc (Sơn La)... Vùng này là quê hương của các dân tộc Tày, Nùng, Thái, Lào, Lự, Sán Chay, Giáy, Bố Y... Chúng tôi thăm ngôi nhà sàn dựng theo nguyên mẫu của dân tộc Tày ở xã Long Ðống (Bắc Sơn, Lạng Sơn) làm cách đây gần 100 năm. Ở vùng này, ngôi nhà thường có diện tích rộng, với năm gian (ba gian chính, hai gian chái), làm bằng gỗ đinh, mái lợp ngói, cao hơn 6 m, từ mặt đất đến sàn nhà là 1,80 m. Cầu thang lên nhà sàn đặt ở bên phải đầu hồi, với bảy hoặc chín bậc cầu thang. Ðây là nơi để sàn nước, có máng nước tự chảy từ trên khe núi cao về, nước dùng nấu ăn hằng ngày, giặt giũ quần áo, vừa để khách rửa chân trước khi vào nhà. Bên trong nhà sàn là buồng ngủ, là phòng khách, nơi để bồ đựng thóc, ngô. Nhà sàn người Tày có hai bếp lửa, một bếp đặt ở gian ngoài để sưởi, đun nước, nơi để phụ nữ quay xa kéo sợi dệt vải; một bếp đặt gian bên trong, để nấu ăn, nấu cám lợn. Gầm nhà sàn là nơi để cày, búa, cuốc, loóng đập lúa, cối xay thóc, cối giã gạo, quạt hòm thóc, và dụng cụ đánh cá... Ngày trước, gầm sàn nhà là nơi nhốt trâu, bò, gà vịt, ngày nay trâu, bò, gà vịt đã được chuyển ra chuồng ở cách xa nhà. Ðến với Bảo tàng ngoài trời, khách tham quan được ngắm chiếc cọn quay sức nước được làm bằng gỗ, tre, nứa. Chiếc cối giã gạo bằng sức nước được thiết kế khá đơn giản, mỗi lần có thể giã được hàng chục kg gạo. Tại Bảo tàng ngoài trời, khách tham quan còn được tiếp xúc với hình ảnh nhiều lễ hội như hội lồng tồng - xuống đồng, của người Tày, hội hoa ban, hội xòe của người Thái, hát sli lượn của người Tày, Nùng...
Tại không gian văn hóa trung du đồng bằng Bắc Bộ, đi chiếc cổng làng của người Kinh, chúng tôi vào thăm một ngôi nhà tiêu biểu. Theo giới thiệu thì nhà có nguyên mẫu từ ngôi nhà của ông Nghiêm Quang Lễ, xóm Phú Mầu (Yên Phong, Bắc Ninh) làm cách đây gần 100 năm. Nhà rộng 150 m2, có ba gian hai chái, mái lợp ngói, thưng nhà bằng gỗ, xây gạch đá ong, nhà quay về hướng phía nam. Gian giữa nhà gọi là gian bảy, giữa gian này là đặt bàn thờ tổ tiên với bài vị, đài rượu, đỉnh đồng, cây đèn, cây nến, hương án, sập thồ, giường hành, thiều châu, ống cắm hương, mâm vuông, mâm hồng, bát hương, cơi đôi, câu đối, con hạc... Trên bốn cột nhà gian giữa treo hai câu đối sơn son thếp vàng, chính giữa trên cao trước bàn thờ là bức hoành phi. Không gian văn hóa này còn trưng bày một số nghề truyền thống, như nghề in tranh dân gian ở làng Hồ (xã Ðông Hồ, Thuận Thành, Bắc Ninh). Tranh Ðông Hồ in bằng giấy dó, ván in làm bằng gỗ thị hay gỗ mít. Nguyên liệu in tranh là chất điệp, nước hoa hòe, hoa hiên, mầu các loại. Tranh vẽ theo lối đơn truyền bích đồ, diễn tả sống động. Nghề chạm khắc gỗ tập trung ở làng Ðồng Kỵ (Từ Sơn, Bắc Ninh). Ðường làng của người Kinh lát gạch nghiêng, phục chế theo nguyên mẫu của đường làng vùng Kinh Bắc rộng 1,4 m. Rồi giếng nước người Kinh tượng trưng cho sự dồi dào của cuộc sống, giếng làng xây kiểu vòng tròn ngay giữa làng. Nhà nào cũng có sân vườn để trồng các loại rau xanh, cây cảnh. Bao bọc chung quanh nhà là bức tường xây bằng gạch hay đá ong. Có nhà thì trồng cây râm bụt để làm hàng rào quanh nhà, quanh nhà còn có hàng cây cau, vườn mít, rặng tre...
Không gian văn hóa duyên hải miền trung là nơi cư trú của người Kinh, Mường, Thái, Dao, Mông, Khơ Mú, Bru - Vân Kiều, Tày, Hoa, Tà Ôi, Chăm... Tại không gian văn hóa này, du khách tham quan ba mô hình: Lăng thờ cá voi, nghề làm gốm người Chăm, hệ thống tháp Chăm. Lăng ngư ông là nơi hằng năm dân làng tổ chức các hoạt động và nghi lễ thờ cá voi, các hội vui chơi truyền thống. Lăng phục chế tại bảo tàng có nguồn gốc từ làng Tân Thái (cũ) thuộc phường Mân Thái (Sơn Trà, TP Ðà Nẵng) xây dựng từ thế kỷ 19. Lăng có kích thước rộng 12,7 m, sâu 13,40 m, cao 6 m. Không gian văn hóa duyên hải miền trung thể hiện khá rõ qua văn hóa của người Chăm, với nền văn hóa phát triển sớm. Trong di sản văn hóa ấy có nghề gốm thủ công truyền thống, như ở thôn Bầu Trúc. Thôn Bầu Trúc có tên Chăm là "Paley Hamu Crauk" nằm trên quốc lộ 1A, cách TP Phan Rang - Tháp Chàm 9 km. Thôn có khoảng 460 hộ dân, trong đó hơn 95% số hộ làm nghề gốm. Trong di sản văn hóa người Chăm, nổi bật nhất là hệ thống đền tháp điêu khắc, tượng thờ... Ngắm nhìn tháp Pô Klong Grai, chúng tôi được biết đây tháp không những có giá trị về lịch sử, nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc mà còn có giá trị về tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục tập quán, hội hè của người Chăm. Những năm gần đây, tháp Pô Klong Grai đã thu hút được nhiều nhà nghiên cứu văn hóa, nghệ thuật, trở thành biểu tượng của văn hóa Chăm, và là niềm tự hào của dân tộc Chăm.
Không gian văn hóa Trường Sơn - Tây Nguyên gồm năm tỉnh từ bắc xuống nam gồm Kon Tum, Gia Lai, Ðác Lắc, Ðác Nông và Lâm Ðồng, với 46 dân tộc anh em cùng chung sống. Ðến đây, chúng tôi được tìm hiểu về nhà rông Tây Nguyên, các nhạc cụ, nhà mồ Tây Nguyên. Ngôi nhà rông tại Bảo tàng chính là nhà rông Ba Na làng Kon Tum Kơ Pơg, TP Kon Tum, xây dựng từ cuối thế kỷ 19. Năm 1976, nhà rông được đưa về triển lãm tại TP Hồ Chí Minh, năm 2001, được chuyển về Bảo tàng. Nhà rông là kiến trúc dân gian lâu đời của nhiều dân tộc ở Tây Nguyên, là sản phẩm văn hóa độc đáo, mang sắc thái đặc thù. Vì vậy, nói tới Tây Nguyên, ai cũng nghĩ tới hình tượng nhà rông, voi, chim ch’rao, cây Kơnia, đàn T’rưng, cồng chiêng, xoang, cột gưng, ché, rượu cần, lễ đâm trâu, các lễ hội nông nghiệp cổ xưa, trường ca Ðăm San, Xinh Nhã... Trong quá trình lao động, đồng bào Tây Nguyên sáng tạo ra nhiều nhạc cụ độc đáo. Ðàn gió là nhạc cụ sử dụng gió tác động vào cánh quạt làm chuyển động hệ thống ống lồ ô, tạo ra âm thanh. Ðàn gió thường đặt ở chung quanh nương lúa, chòi canh vào lúc lúa bắt đầu chín, để đuổi chim thú phá hoại mùa màng. Ðàn đá là nhạc cụ ra đời khoảng vài nghìn năm, là loại đàn lúc đầu có tác dụng đuổi chim, thú, sau này là âm thanh biểu lộ tình cảm con người. Tương tự như vậy là đàn nước, với những chùm ống nứa, ống tre dựa vào sức chảy của dòng nước va đập vào nhau để đuổi chim muông, thú rừng cắn phá hoa màu.
Khu không gian văn hóa đồng bằng Nam Bộ có diện tích trưng bày hơn 4.000 m2. Ấn tượng đầu tiên khi tham quan là ngôi chùa Khmer xây dựng theo nguyên mẫu, vốn nguy nga, đồ sộ nằm giữa trung tâm của phum, sóc. Ngôi chùa có giá trị lớn về kiến trúc và nghệ thuật, là không gian thiêng nơi cử hành các nghi lễ tôn giáo tín ngưỡng, nơi diễn ra các hoạt động văn hóa - nghệ thuật dân gian truyền thống, nơi học nghề mộc, nề, điêu khắc, họa, kiến trúc... Ðặc biệt là học để rèn luyện đạo đức thành con người tốt, làm điều thiện, tránh điều ác. Chùa Khmer còn là nơi gặp gỡ, hội họp của người Khmer trong sóc để trao đổi kinh nghiệm phát triển kinh tế. Cổng chùa ở đây làm theo nguyên mẫu xây dựng năm 1642 tại ấp Tân Ngãi (Trà Vinh). Hằng năm đồng bào Khmer Nam Bộ còn có nhiều ngày lễ như: Lễ Ðônta, lễ xá tội vong nhân. Lễ Ok-Om-Bok (lễ chào mặt trăng), Lễ Kthân - Tean (lễ dâng y), Lê Chôl - Vasa (lễ nhập hạ) - Vasa (lễ ra hạ), Lễ Bon - Buôs (lễ đi tu), Lễ Visack - Bô chia (Lễ mừng ngày Phật sinh), Lễ Puthia - Pysek (lễ an vị tượng Phật), Lễ Chôs - Xây ma (lễ kiết giới) - tức Lễ khánh thành chùa...
Thăm Bảo tàng ngoài trời - Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam, chúng ta càng thêm hiểu, tự hào về Tổ quốc mình, về các di sản văn hóa trải qua hàng nghìn năm lao động và sáng tạo của cha ông chúng ta đã làm nên, để lại cho con cháu muôn đời mai sau.