ND - Chương trình Chống lao quốc gia (CTCLQG) thời gian qua tiếp tục được duy trì, phát huy những thành tựu đạt được của giai đoạn trước. Chương trình nỗ lực phấn đấu để hoàn thành tốt mục tiêu đặt ra cho giai đoạn mới là khống chế tình hình dịch tễ bệnh lao.
Trong khu vực Tây Thái Bình Dương, Việt Nam là nước đứng thứ 3 sau Trung Quốc và Philippines về số lượng người bệnh lao và đứng thứ 13 trong 22 nước có số người bệnh lao cao trên toàn cầu. Bệnh lao cũng là một bệnh có nhiều người mắc với số tử vong xếp trong năm nguyên nhân gây chết người cao nhất ở Việt Nam. Tỷ lệ nhiễm HIV trong người bệnh lao tăng nhanh theo từng năm.
Năm 2004, theo số liệu điều tra trọng điểm của Chương trình HIV/AIDS quốc gia, tỷ lệ HIV (+) ở người bệnh lao đã ở mức 4,8% và ở nhiều tỉnh tỷ lệ này hơn 10%, như: Hải Phòng, Quảng Ninh, Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, An Giang...
Hiện nay cả nước có 92 huyện đã triển khai dự án Phát triển mạng lưới y tế cơ sở và phòng chống lao. Chiến lược Chống lao quốc gia đã tiến hành công tác phòng chống lao trong trại giam và các trung tâm 05 - 06 bằng cách phối hợp Bộ Công an và Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội đào tạo cho 168 cán bộ y tế của các trại giam và 141 cán bộ của trung tâm 05 - 06 trên toàn quốc về phát hiện, chẩn đoán và quản lý điều trị bệnh lao.
Hoạt động phối hợp y tế công - tư đang được triển khai tại 21 tỉnh, thành phố trên toàn quốc. Các hoạt động này chủ yếu tập trung vào đào tạo và truyền thông về bệnh lao cho các bác sĩ, trên cơ sở đó xây dựng cam kết giữa Chương trình Chống lao tỉnh và khối y tế tư nhân nhằm khuyến khích người hành nghề y tế tư chuyển đối tượng nghi lao tới các cơ sở chẩn đoán, chăm sóc và điều trị bệnh lao của hệ thống y tế công.
Trước tình hình gia tăng không ngừng của đại dịch HIV/AIDS và đồng nhiễm lao/HIV ở tất cả các tỉnh, thành phố trên toàn quốc trong khi chưa có chính sách, cơ chế về sự phối hợp giữa hai chương trình, từ năm 2004, Quỹ toàn cầu phòng, chống lao (QTCPCL) tại Việt Nam đã triển khai các hoạt động phối hợp phòng, chống đồng nhiễm lao/HIV.
Ðến năm 2005, hoạt động này được tăng cường đầu tư với nguồn kinh phí của dự án Hà Lan. Hoạt động trong khuôn khổ của các dự án nói trên tiếp tục được duy trì và củng cố trong năm 2006 và chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực: Phát triển nguồn nhân lực có khả năng xử lý vấn đề đồng nhiễm lao/HIV thông qua việc đào tạo đội ngũ cán bộ của hai chương trình; Tăng cường sự hiểu biết của cộng đồng về vấn đề lao/HIV, sự ủng hộ của các cấp chính quyền các tổ chức xã hội thông qua hoạt động tài trợ, truyền thông và vận động xã hội; Thành lập các phòng tư vấn xét nghiệm tự nguyện (VCT) tại các cơ sở chống lao tuyến tỉnh, huyện.
Hiện tại có 13 phòng VCT tại 15 tỉnh, thành phố trên toàn quốc tạo điều kiện cho người nhiễm HIV tiếp cận với dịch vụ chẩn đoán và chăm sóc bệnh lao cũng như bệnh nhân lao với các dịch vụ xét nghiệm và chăm sóc HIV/AIDS. Triển khai các nghiên cứu đánh giá cơ bản về vấn đề đồng nhiễm lao/HIV giúp cho việc can thiệp có hiệu quả hơn, đồng thời giúp CTCL có định hướng phù hợp với hoàn cảnh thực tế tại Việt Nam...
Ngoài ra, dự án "Nâng cao khả năng tư vấn, phát hiện và quản lý điều trị bệnh lao/HIV tại Hải Phòng, Quảng Ninh và Hà Nội" với sự hỗ trợ về kỹ thuật và tài chính của Văn phòng CDC đã được triển khai nhằm tư vấn và xét nghiệm HIV cho người bệnh lao ở tuyến tỉnh và huyện. Phát hiện người nghi lao trong nhóm người nhiễm HIV; chẩn đoán và điều trị cho người nhiễm HIV/AIDS theo phác đồ điều trị lao ngắn ngày có giám sát trực tiếp. Ðánh giá tình hình kháng thuốc lao trong nhóm người bệnh lao/HIV.
Tất cả 64 tỉnh, thành phố trong cả nước đã tổ chức các hoạt động tuyên truyền về bệnh lao và hoạt động chống lao ở tỉnh theo chỉ đạo của Ban điều hành Dự án phòng, chống lao. Ðã tổ chức nhiều hoạt động như: Thi tìm hiểu về bệnh lao, tọa đàm, hội thảo, mít-tinh, diễu hành, tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng...
Tại Hội nghị tổng kết công tác phòng, chống lao, Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Xuyên đã nêu những khó khăn, yếu kém và thách thức trong công tác phòng, chống lao. Ðó là: Bệnh lao quay trở lại trên phạm vi toàn thế giới, Việt Nam là một trong 22 nước trên thế giới có tỷ lệ mắc lao cao; sự gia tăng không ngừng của đại dịch HIV/AIDS, đồng nhiễm lao/HIV ngày càng cao.
Vấn đề lao kháng đa thuốc nên việc điều trị bệnh lao trở nên khó khăn và phức tạp; những khó khăn trong việc tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe trong chiến lược DOTS đối với người dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa... Thứ trưởng đã nêu bảy vấn đề mà Chương trình chống lao cần quan tâm trong thời gian tới, bao gồm: Tăng cường công tác truyền thông, giáo dục sức khỏe về bệnh lao trên các phương tiện thông tin đại chúng với nhiều hình thức giúp cho mọi người dân hiểu về bệnh lao để có ý thức phòng, chống lao, đẩy mạnh xã hội hóa công tác phòng, chống lao.
Củng cố và phát triển mạng lưới; tập trung vào việc ổn định mạng lưới chống lao tuyến quận, huyện, phường, xã; Nâng cao chất lượng xét nghiệm cho tuyến huyện...
Ðẩy mạnh công tác đào tạo cán bộ, nâng cao năng lực quản lý và giám sát của đội ngũ cán bộ chống lao ở các tuyến, đặc biệt chú ý đào tạo cán bộ tuyến tỉnh, huyện, ở các tỉnh vùng núi, vùng khó khăn...; Bảo đảm cung ứng đầy đủ thuốc điều trị, vật tư và trang thiết bị xét nghiệm.
Ðẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát bệnh lao; tiếp tục chú trọng công tác phòng, chống lao ở khu vực khó khăn, khu vực trại giam, trung tâm 05-06, khu vực y tế tư nhân, chú ý tới phòng, chống đồng nhiễm lao/HIV. Tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế để tranh thủ sự giúp đỡ hỗ trợ về kỹ thuật và tài chính cho CTCLQG,...
Mặc dù gặp nhiều khó khăn, thách thức do khối lượng lớn công việc đặt ra trong thời kỳ chuyển giao giữa hai chu kỳ kế hoạch năm năm 2001- 2006/2006- 2010 và việc điều chỉnh để đáp ứng duy trì hoạt động của mạng lưới chống lao trong việc cải tổ hệ thống y tế các cấp, CTCLQG đã hoàn thành chỉ tiêu chuyên môn và duy trì được mục tiêu của Tổ chức Y tế thế giới đặt ra về phát hiện và điều trị từ năm 1997.
Tuy nhiên, với những yếu kém và những thách thức, CTCLQG cần nỗ lực nhiều hơn nữa để đạt được mục tiêu phòng, chống lao trong giai đoạn 2006 - 2010.
HÀ HƯƠNG