Kỷ niệm 40 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Nhớ về những giờ phút Bác đi xa

Hôm ấy là 16 giờ ngày 12-8-1969, Bác gặp đồng chí Lê Ðức Thọ tại nhà nghỉ Hồ Tây nghe báo cáo tình hình Hội nghị Pa-ri. Ðêm hôm đó, Bác lên cơn sốt và ho. Rồi những ngày sau đó Bác ho nhiều hơn, sốt cao hơn. Nhưng Bác vẫn lên xuống nhà sàn gắng gượng làm việc. Theo đề nghị của bác sĩ, tối 17-8-1969, Bác Hồ không làm việc ở nhà sàn nữa, Người xuống ở và làm việc tại ngôi nhà nhỏ phía sau nhà sàn, ngôi nhà mà Bộ Chính trị đã quyết định làm cho Bác trong những ngày tháng 5-1967 khi Bác sang Trung Quốc để chữa bệnh, với mục đích để bảo đảm an toàn cho Bác trong những năm máy bay giặc Mỹ bắn phá Hà Nội. Nhưng Bác không nhận sử dụng riêng của mình, Người nói: Khi nào có nhiều đồng chí phụ trách đến làm việc với Bác thì họp ở nhà ấy cho chắc chắn. Còn lúc ở một mình, Bác cứ ở nhà sàn gỗ này thôi. Các chú lo cho Bác, cũng phải lo cho dân. Dân chịu được thế nào, Bác chịu được như vậy.

Và, kể từ ngày 20-7-1967 (ngày Bác đi Trung Quốc về), mỗi tuần một lần Bộ Chính trị đến họp rất đều ở ngôi nhà ấy để quyết định những chủ trương lớn của Ðảng và Nhà nước. (Bây giờ trong hồ sơ di sản của Khu di tích ngôi nhà này được gọi là nhà 67).

Trong dịp kỷ niệm Ðảng ta 39 tuổi (3-2-1969), tại ngôi nhà này, Bác Hồ đã viết bài "Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân", biểu dương tinh thần hy sinh gương mẫu, đạo đức trong sáng của cán bộ, đảng viên, đồng thời lên án những hành vi, tư tưởng cá nhân, hẹp hòi. Người chỉ ra rằng, chủ nghĩa cá nhân là nguyên nhân, là bạn đồng hành của căn bệnh tham ô, hủ hóa, lãng phí, xa hoa, tham danh, trục lợi... làm hại đến quyền lợi của cách mạng, của nhân dân, làm giảm thanh danh, uy tín của Ðảng cầm quyền. Qua bài viết cuối cùng về đạo đức trước khi từ biệt thế giới này, Bác Hồ không quên dặn lại mọi người nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng - một cái gốc quý báu để bảo đảm cho cuộc hành trình trong cuộc đời mỗi người tới đích vẻ vang. Ngẫm suy thời cuộc hiện nay, khi mà từ chủ nghĩa cá nhân nảy sinh tham nhũng và các tiêu cực khác đã trở thành "giặc nội xâm", thì càng thấy giá trị lớn lao lời dạy của Bác "quét sạch chủ nghĩa cá nhân" là quét sạch "rác rưởi" tham nhũng quan liêu, để lấy lại lòng tin của nhân dân.

Và, tại ngôi nhà này, Bác đã để lại những tấm gương đạo đức trong sáng để bây giờ chúng ta học và làm theo.

Có một lần, đồng chí phục vụ đọc cho Bác nghe trên Báo Hà Nội mới đưa tin: Hợp tác xã Ngũ Xã có ý định đúc bức tượng Bác bán thân bằng đồng, Bác nói với đồng chí phục vụ: Chú sang nói với Trung ương, trong lúc đồng rất khan hiếm, không được làm như vậy. Ðem số tiền định đúc tượng, xây thêm cho các cháu một phòng học. Biết bao anh hùng liệt sĩ sao không đúc tượng, lại đúc tượng Bác?

Mặc dầu Bác đang ốm nặng, nhưng hôm đó Bác rất vui khi nghe báo cáo với Bác Nghị quyết của Bộ Chính trị về kỷ niệm bốn ngày lễ lớn trong năm 1970. Bác bảo: Các chú nên bàn cho kỹ, còn ý kiến của Bác, Bác chỉ đồng ý ba phần tư Nghị quyết. Bác không đồng ý đưa ngày 19-5 là ngày kỷ niệm lớn trong năm 1970. Còn Nghị quyết kỷ niệm 40 năm Ngày thành lập Ðảng, 100 năm Ngày sinh V.I. Lê-nin; 25 năm Ngày thành lập nước thì các chú nên có sớm để tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân. Hiện nay các cháu học sinh sắp bước vào năm học mới, giấy mực, tiền bạc dùng để tuyên truyền về ngày sinh của Bác thì nên dành để in sách giáo khoa và mục dụng cụ học tập cho các cháu, khỏi lãng phí.

Nhớ về những ngày Bác ốm, những giờ phút các bác sĩ hết lòng chữa cho Bác, những lúc Bác tỉnh lại, Bác hỏi han mọi việc. Trong đó, chúng tôi nhớ mãi lời Bác, những lời mà Bác như chủ động với mọi công việc, chủ động với cả sự ra đi của mình. Như, ngày 29-8-1969, Bác nói với Thủ tướng Phạm Văn Ðồng và các cháu con ở quanh Bác: Ngày lễ Quốc khánh Bác sẽ ra dự mươi mười lăm phút. Ngẫm lại thấy kỳ lạ thay: 9 giờ sáng 2-9-1969, Bác bị một cơn đau tim rất nặng. Các giáo sư, bác sĩ Việt Nam và Trung Quốc khẩn trương cấp cứu Bác. Theo dõi trên máy điện tim, 9 giờ 15 phút, tim Bác ngừng đập! Các bác sĩ, các anh em bảo vệ chúng tôi thay nhau xoa bóp, day lên ngực Bác, mong sao tim Bác đập trở lại. Cho đến 9 giờ 47 phút, đồng chí Phạm Văn Ðồng trào nước mắt, giọng nghẹn lại: Thôi các đồng chí ạ, Bác của chúng ta không qua khỏi nữa rồi!

Thế là, 9 giờ 47 phút ngày 2-9-1969, từ nơi đây truyền đến cho nhân loại nỗi đau Bác Hồ ra đi mãi mãi để cho "đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa". Ngày 2-9 thật là kỳ vọng gửi lại đời sau, kỳ vọng bởi vì chẳng có gì riêng cho Bác, bởi 24 năm trước ngày 2-9-1945, Bác Hồ đã cứu dân tộc khỏi xích xiềng nô lệ, mang lại độc lập, tự do, hạnh phúc cho dân tộc.

Bác Hồ của chúng ta, Người lãnh đạo cao nhất của Ðảng, Nhà nước cho đến giờ phút cuối đời không nhận bất cứ đặc quyền, đặc lợi nào. 24 năm làm Chủ tịch nước, thường xuyên về các địa phương làm việc, hầu như các chuyến đi của Bác không bao giờ báo trước. Nhưng đến Ngày sinh của mình thì Bác lại dặn trước các địa phương không được tổ chức lễ kỷ niệm.

Sáng ngày Bác mất, một số chiến sĩ công an đã trực tiếp bảo vệ Bác, trong đó có tôi gác tay súng chuyển sang công việc bảo vệ di sản của Bác để lại tại Khu Di tích Phủ Chủ tịch.

9 giờ 47 phút ngày 2-9-1989 (ngày Bộ Chính trị công bố toàn văn Di chúc của Bác, công bố ngày mất chính thức của Bác), tôi đã mời và đón đồng chí Nguyễn Văn Linh và đồng chí Phạm Văn Ðồng vào thăm lại nơi Bác mất 2-9-1969 và thắp nén nhang thơm tưởng nhớ Bác. Hai đồng chí đã cho ý kiến: Nên có một nơi trang trọng để thờ cúng Bác, vì hương hồn Bác vẫn mãi mãi ở lại nơi đây với chúng ta. Năm 2001, chúng tôi đã thực hiện lời dặn dò của hai đồng chí, lập Ban thờ cúng Bác trang nghiêm, rộng rãi để cháu con hôm nay và mai sau về thắp hương tưởng nhớ người Ông, người Bác, người Cha, với bức tượng đồng Bác ngồi ghế, tay Bác cầm kính đặt lên tờ Báo Nhân Dân để mắt Bác nhìn thẳng như là Bác dừng đọc báo để chào đón mọi người. Và mọi người hôm nay được gặp Bác, để đón nhận lời dạy của Bác về lẽ sống và đạo lý làm người: "Cần, Kiệm, Liêm, Chính" (được bày đặt theo kiểu thờ tự là bức hoành phi); "Ðoàn kết, Ðoàn kết, Ðại đoàn kết, Thành công, Thành công, Ðại thành công" (được bày đặt theo kiểu thờ tự là câu đối). Bàn thờ được đặt đúng với ý nghĩa của căn phòng lúc sinh thời Bác vẫn thường tiếp cán bộ Việt Nam đến báo cáo công việc với Bác, và Bác vẫn thường ký các Sắc lệnh của Nhà nước.

Tưởng nhớ 40 năm ngày Bác đi xa, những điều ôn lại trên đây mong được góp thêm một chút kỷ niệm, suy nghĩ nhỏ của mình với hôm nay, với mai sau, hãy trân trọng, giữ gìn và phát huy tư tưởng, đạo đức, giá trị di sản của Bác Hồ kính yêu.

TRẦN VIẾT HOÀN
Nguyên Giám đốc Khu Di tích Phủ Chủ tịch

Có thể bạn quan tâm