“Nhành hương xưa” của cố danh họa Tú Duyên

Annam Gallery và Lân Tinh Foundation vừa khai mạc triển lãm hồi cố lần đầu của cố họa sĩ Tú Duyên (1915-2012) mang tên “Nhành hương xưa”. Triển lãm trưng bày 18 tác phẩm, gồm các sáng tác trên chất liệu lụa cùng với loạt tranh ứng dụng kỹ thuật Thủ Ấn Họa danh tiếng đã làm nên tên tuổi của ông.
Một tác phẩm của cố họa sĩ Tú Duyên trưng bày tại triển lãm “Nhành hương xưa”.
Một tác phẩm của cố họa sĩ Tú Duyên trưng bày tại triển lãm “Nhành hương xưa”.

Họa sĩ Tú Duyên tên thật là Nguyễn Văn Duyến, nghệ danh của ông đúng ra là Tứ Duyên, đó là cách đọc lái của chữ Duyến Tư - ghép giữa tên ông và tên người bạn học rất thân của ông - Đỗ Văn Tư, nhưng khách mua tranh của ông quen đọc thành Tú Duyên. Ông sinh trưởng trong một gia đình nhà nho tại cái nôi mỹ nghệ Việt Nam - làng cổ Bát Tràng, chính nơi đây đã ảnh hưởng đến tâm hồn, tình cảm và định hình lối sáng tác rất riêng và độc đáo của Tú Duyên.

Từ năm 1935 đến năm 1938, ông thi đậu và theo học lớp dự bị tại Trường Mỹ thuật Đông Dương. Đến năm 1939, ông phải gác lại việc học và cùng gia đình chuyển vào Sài Gòn sinh sống. Năm 1942 là cột mốc quan trọng trong sự nghiệp hội họa của Tú Duyên khi ông sáng tạo ra kỹ thuật “Thủ Ấn Họa” - một loại hình ấn mộc bản cải biên từ tranh khắc gỗ dân gian của Việt Nam, có sự khác biệt về công dụng và mang tính nghệ thuật cao.

Trong khi các thế hệ họa sĩ đồng lứa tập trung và khám phá chất liệu sơn dầu để biểu đạt những tình cảm, hình ảnh của cuộc sống đương đại và nhận được nhiều sự yêu mến, cổ vũ từ công chúng yêu nghệ thuật, họa sĩ Tú Duyên lại kiên trì theo đuổi “lối đi” riêng của mình.

Thông qua việc nghiên cứu khắc mộc truyền thống và dành nhiều tâm sức vào nghệ thuật Ấn họa Nhật Bản và Trung Quốc, ông đã kiến tạo nên dòng tranh “Thủ Ấn Họa” có một không hai ở Việt Nam, mà học giả Nguyễn Hiến Lê cũng từng ngợi khen rằng “nhờ họa sĩ Tú Duyên mà nền nghệ thuật Việt Nam góp được một phần danh dự cho nền nghệ thuật thế giới”.

Theo các nhà nghiên cứu về mỹ thuật, tuy tranh Tú Duyên chỉ sử dụng hai bản khắc âm-dương, nhưng mầu sắc rất đa dạng và sống động. Tùy theo tâm tư, tình cảm, không gian, nội dung và đề tài diễn đạt mà Tú Duyên sẽ chọn gam mầu nóng-lạnh, rồi đặt lụa lên và dùng tay xoa, ấn, vuốt, đập để mầu thấm vào lụa, tạo ra nét dìu dịu, mạnh nhẹ, rõ mờ theo chủ đích mà họa sĩ cần thể hiện.

Triển lãm “Nhành hương xưa” gợi cho người xem về một không gian xưa, nhẹ nhàng và thơ mộng với ba đối tượng thẩm mỹ chính: các loài hoa, người phụ nữ Việt Nam xinh đẹp, thướt tha trong tà áo dài cùng các nhạc cụ dân tộc.

Trong nhiều khung cảnh khác nhau, những người phụ nữ ấy như đang thả hồn qua những nhạc khúc, giai điệu xưa được tấu bởi đàn tranh, đàn nguyệt, hay đàn tỳ bà - những nhạc cụ tiêu biểu cho nền âm nhạc cổ truyền Việt Nam. Tranh của họa sĩ được lấy cảm hứng từ kỹ thuật ấn mộc bản kết hợp dùng bàn tay để pha và dàn mầu đậm nhạt, dày mỏng khác nhau cho tranh khắc được Tú Duyên dày công nghiên cứu và sáng tạo nên với tên gọi “Thủ Ấn Họa” hơn 80 năm về trước. Dù nhiều năm tháng đã trôi qua, nhưng mầu tranh vẫn sống động và đủ sức lay động tâm trí, cảm xúc của người xem.

“Thủ Ấn Họa”, khi so sánh với tranh Đông Hồ hay tranh Hàng Trống - những dòng tranh ấn mộc bản dân gian Việt Nam, quả thật khác biệt và là một sự cách tân đầy tính sáng tạo của họa sĩ Tú Duyên. Nếu tranh Đông Hồ cần mỗi bản in (bản dương) cho mỗi mầu in và phải in chồng để phối mầu và tranh Hàng Trống phải dùng bút lông tô nét đậm nhạt sau mỗi bản in khắc nháp, thì tranh khắc gỗ của Tú Duyên chỉ sử dụng duy nhất hai bản khắc: bản âm (bản mầu) khắc chìm với nét khắc sâu, đủ nét nhưng không đậm với chủ đích tạo phông nền, và bản dương (bản nét) khắc nổi tạo độ đậm nhạt cho từng đường nét của tranh. Tuy chỉ dùng hai bản khắc duy nhất nhưng họa sĩ có thể in được rất nhiều mầu khác nhau.

Ngoài ra, Tú Duyên không sử dụng con lăn để giúp mầu trên mặt khắc gỗ thấm vào lụa hoặc giấy, mà ông dùng đầu ngón tay và gang lòng bàn tay pha và dàn mầu cho tranh khắc. Tùy theo tâm tư, tình cảm, không gian, nội dung và đề tài diễn đạt mà họa sĩ sẽ chọn gam mầu nóng-lạnh, rồi đặt lụa lên và dùng tay xoa, ấn, vuốt, đập để mầu thấm vào lụa, tạo ra nét dìu dịu, mạnh nhẹ, rõ mờ theo chủ đích biểu hiện. Họa sĩ sẽ in bản âm trước rồi tới bản dương sau. Mỗi bản khắc chỉ sử dụng từ ba đến năm lần và sẽ được tiêu hủy sau đó.

Với triển lãm nghệ thuật “Nhành hương xưa”, có thể nói, hoa sen, hướng dương và loa kèn là những loài hoa yêu thích của Tú Duyên và thường xuyên xuất hiện trong tranh của ông, với nét đẹp được miêu tả qua nhiều góc độ. Đó là những búp sen hồng chúm chím đang vươn mình, chờ ngày nở rộ giữa ao sen, hay là hoa hướng dương kiên cường và mạnh mẽ đứng ngược chiều gió thổi. Hoặc là bình hoa loa kèn tươi thắm với hương thơm dịu mát đặt cạnh tượng Đức Phật trầm mặc.

Các loài hoa nêu trên cũng chính là hiện thân cho vẻ đẹp và sự tao nhã, nét dịu dàng, đằm thắm của người phụ nữ khi Tú Duyên khéo léo lồng ghép vào tranh hình ảnh hoa cùng người phụ nữ Việt Nam xinh đẹp, duyên dáng trong tà áo dài. Ngắm nhìn mỗi bức tranh của họa sĩ Tú Duyên, ta cảm tưởng như đang thưởng thức một bài thơ, một bản nhạc với bút pháp tinh tế, ngôn ngữ và hòa sắc mềm mại, dịu nhẹ.

Chúng được sáng tác từ các chất liệu đời sống gần gũi, pha đôi chút sự mộng mơ, nên thơ cùng với góc nhìn nghiệm sinh theo thời gian. Tú Duyên đã để lại một dấu ấn nghệ thuật khó phai trong lòng giới mộ điệu nghệ thuật và các thế hệ họa sĩ sau này!

Ông Nguyễn Bùi, con trai cố họa sĩ Tú Duyên xúc động chia sẻ: “Những năm cuối đời trước khi mất, ba tôi vẫn ôm ấp một triển lãm cuối cùng được hiện thực, nhưng không kịp. Ông đi xa mãi mãi để lại những tiếc thương cho con cháu với những ước nguyện dở dang. Sau 12 năm, triển lãm “Nhành hương xưa” đã được tổ chức với những tác phẩm nghệ thuật theo trường phái Thủ Ấn Họa và mầu nước trên lụa của ông. Gia đình rất cảm động và hy vọng ở một nơi xa, ba tôi sẽ mỉm cười và hài lòng vì ước nguyện đã được hoàn thành”.

Có thể bạn quan tâm