Đối tượng nghiên cứu là những giống chọn lọc bao gồm những giống cây bạch đàn, tếch, trầm hương, sa nhân; các loài hoa Lili, Loa kèn thơm và Hồng môn…Vật liệu nghiên cứu là các mô sinh dưỡng; mẫu nuôi là những mảnh mô, lát mỏng tế bào.
Nội dung nghiên cứu tập trung vào tạo phôi vô tính; tạo củ siêu nhỏ (micro), hạt nhân tạo; công nghệ hóa quá trình nhân giống, vườn ươm và xây dựng mô hình trồng thử.
Công trình đã phát triển việc nhân giống công nghiệp và bán công nghiệp đối với một số loài hoa và cây lâm nghiệp có giá trị kinh tế cao; tuyển chọn được 18 giống hoa Lili, 10 giống Hồng môn với những sắc màu, kiểu dáng đa dạng có giá trị kinh tế cao và trên 15 vạn cây giống Sa nhân, Tếch, Trầm hương...
Quy trình công nghệ nhân nhanh giống cây hương liệu và dược liệu, cây gỗ Tech - một loại vật liệu đóng tàu có giá trị cao - và Sa nhân tím - một loài quý hiếm đã được các nhà nghiên cứu hoàn thiện đưa vào sản xuất.
Một thành công quan trọng khác đó là tạo phôi trực tiếp từ lát mỏng tế bào không qua giai đoạn mô sẹo đối với các dòng cây Bạch đàn. Qua đó, các nhà khoa học đã thực hiện việc chuyển gene thông qua lớp mỏng tế bào để nâng cao hệ số nhân giống. Với những kết quả thử nghiệm đạt được, quy trình công nghệ nhân giống hoa Lili, Hồng môn, gỗ Tếch, Trầm hương đã trở thành tiến bộ kỹ thuật được ứng dụng vào sản xuất giống trên quy mô rộng.
Tính mới, độc đáo của những kết quả tạo ra
PGS Đỗ Năng Vịnh cho biết, công nghệ tạo phôi vô tính, hạt nhân tạo lần đầu được nghiên cứu ở nước ta.
Công nghệ tạo phôi vô tính hiện vẫn đang là công nghệ tiên tiến trên thế giới.
Có được kết quả này, phần quan trọng là nhờ thực hiện trên những thiết bị hiện đại của hai phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia về công nghệ tế bào thực vật. Trong quá trình nghiên cứu, các nhà khoa học Việt Nam đã phát hiện một điều thú vị. Đó là dùng bọt núi lửa để làm giá thể trong ươm tạo giống nhiều loại cây trồng.
Giá thể bọt núi lửa với những tính chất vật lý và hóa học thích hợp được coi là phát hiện mới trong sử dụng làm giá thể trong hệ thống vườn ươm.
Phát hiện này đã được nhiều công ty giống tiếp nhận để phổ biến trong hệ thống sản xuất nông nghiệp công nghệ cao. Phát hiện này không chỉ có ý nghĩa đối với sản xuất trong nước mà còn được giới khoa học đánh giá cao.
Tuy nhiên, hiện các nhà khoa học vẫn đang hoàn thiện tiếp quy trình công nghệ nhân giống bằng Bioreactor phổ biến rộng rãi kết quả nghiên cứu để áp dụng trong thực tế sản xuất ở các doanh nghiệp.
| Theo các nhà khoa học, phôi vô tính chứa chất dinh dưỡng tương tự phôi hữu tính, có mầm chóp rễ và chồi đỉnh nên có thể nảy mầm trực tiếp thành cây không qua giai đoạn phát sinh chồi, rễ. Các mô và tế bào sinh dưỡng nuôi cây trong ống nghiệm (in vitro), trực tiếp tạo ra phôi vô tính thông qua mô sẹo là một quá trình trung gian. Tế bào mô sẹo có thể phân theo cấp số nhân, nhờ vậy, chỉ sau một thời gian ngắn nó có thể tạo được một số lượng phôi khổng lồ. Các bước cơ bản để tạo ra hạt nhân tạo từ phôi vô tính có thể bao gồm những quá trình: Tạo mô sẹo phôi hóa; nuôi và nhân tế bào trong dịch lỏng; lọc lấy các cụm tế bào phôi hóa nhỏ (tế bào phôi) đồng nhất; đưa tế bào tiền phôi vào môi trường phát triển, tích lũy chất dự trữ và thuần thục; làm khô; bọc bằng màng nhân tạo và sau cùng là đưa vào bảo quản... Những hạt nhân tạo từ phôi vô tính có thể nảy mầm và tạo ra cây con cả trong môi trường trong và ngoài ống nghiệm. Cho đến nay, trên 200 loài cây trồng đã được nhân giống bằng công nghệ phôi vô tính. Phôi vô tính có thể bảo quản lâu dài và cho nảy mầm vào thời vụ thích hợp. Từ phôi vô tính có thể tạo hạt nhân tạo, đây là yếu tố thuận lợi cho cơ giới hóa và tự dộng hóa nhân giống công nghiệp. Với cây cà phê, từ 1gr sinh khối, trong vài tháng người ta có thể tạo được 60 vạn phôi vô tính có tỷ lệ tái sinh đến 47%. |