Nhận diện múa trong ca trù 

Múa trong ca trù-đâu là bản sắc?

Trong nghệ thuật ca trù, múa là một trong những thành tố quan trọng góp phần tạo nên sự đặc sắc của sinh hoạt văn hoá nghệ thuật ca trù cổ truyền. Theo sách "Việt Nam ca trù biên khảo" của Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề nêu ra 7 điệu múa: đại thạch vừa múa vừa hát, bỏ bộ, múa bài bông, múa tứ linh, vừa múa vừa hát bài dâng hương, đội đĩa đèn vừa múa vừa hát, tám cô đầu ăn mặc giả làm bát tiên múa hát rất mềm mại.

Sách "Góp phần tìn hiểu nghệ thuật ca trù và lịch sử nghệ thuật ca trù" của Nguyễn Xuân Diện nêu ra 4 điệu múa: hát múa Đại thạch, múa bỏ bộ, múa bài bông, múa tứ linh.

Cuốn “Hát cửa đình Lỗ Khê” do Hội văn nghệ và Sở VH-TT Hà Nội xuất bản năm 1980 có in bài Hát cửa đình Lỗ Khê của Chu Hà, bài viết có nêu 4 điệu múa: múa bài bông (do Trần Quang Khải và Trần Nhật Duật sáng tác), múa bài bông ở Lỗ Khê, múa bỏ bộ, tấu nhạc và múa tứ linh.

Cuốn “Cuộc thử nghiệm về hát ả đào của Gisa Jahnichen” lại thống kê được 6 điệu múa: múa bỏ bộ, múa bài bông, múa tứ linh, múa tiên, múa Chàng, múa Đại Thạch. Ngoài ra còn hàng chục đầu sách nêu tên các điệu múa trong ca trù… Song tất cả các tác giả khi viết về múa ở những cuốn sách trên mới chỉ dừng lại ở bước nêu tên điệu múa, còn tất cả những yếu tố cầu thành như số lượng người tham gia múa, đội hình và chuyển động đội hình múa, động tác múa, cơ thể múa, trang phục múa, đạo cụ múa thì hầu như không được mô tả kỹ lưỡng; chức năng, vị trí và không gian khi các đào nương trình diễn từng điệu múa cũng không có thông tin cụ thể.

Theo các nhà nghiên cứu ca trù và âm nhạc truyền thống tại hội thảo, thì đây chính là điều khó khăn nhất cho công tác nghiên cứu cũng như phục dựng các điệu múa ca trù. Và nó cũng làm cho người ta nghi ngờ về tính xác thực của tài liệu khi các tác giả nêu tên các điệu múa ca trù.

Duy chỉ có điệu múa bài bông được hai tác giả Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề miêu tả tương đối chi tiết. Hai tác giả khẳng định, múa bài bông có nguồn gốc nơi cung vua phủ chúa, là nhã nhạc của các bậc đế vương, thịnh hiển nhất trong nhạc giới. Múa bài bông ít nhất cũng phải có 8 cô đầu, long trọng hơn thì 16 người, có khi tới 32 người. Trang phục múa là áo thêu kim tuyến giát kính có nhiều tua, dây lưng bằng nhiễu xanh đỏ, bỏ moi bên để lúc múa nó tự tung ra; đầu đội mũ kim phượng, tay cầm quạt, hai bên vai đeo hai cái đèn lồng thắp nến. Khi múa, các cô đào tiến thoái, nhanh, chậm. Khi làm động tác quay, chỉ quay một nửa người, không bao giờ quay lưng vào hương án, vừa múa vừa hát, giọng hát tựa như hát bội. Tuy nhiên, khi mô tả điệu múa này, 2 tác giả lại không nói rõ điệu múa sinh ra trong triều đại nào, nếu là nhã nhạc của các bậc đế vương thì nó được trình diễn vào dịp nào...

Phó giáo sư, NSND Lê Ngọc Canh lại khẳng định rằng, múa bài bông (bông có nghĩa là hoa, còn có tên là bắt bài bông) có từ thời nhà Trần. “Sách Việt Nam ca trù biên khảo” có ghi chép lại điệu múa bài bông do Trần Quang Khải dựng ra để múa trong ngày lễ Thái Bình diên yết do vua Trần Nhân Tông tổ chức sau khi đánh thắng quân Nguyên-Mông.

Cũng bàn về múa bài bông,  nhà nghiên cứu Trần Ngọc Linh cho hay, chỉ có giáo phường nào lớn mạnh hay được đi hát thờ mỗi dịp tế lễ ở đình, ở dinh quan, hay vào kinh hát chầu ngự vua mới có được một đội múa bài bông. Sau một thời gian tìm hiểu tại những địa phương nơi điệu múa bài bông tồn tại (Huế, Thanh Hóa, Nam Định, Hà Tây, Hà Nội), Trần Ngọc Linh khẳng định, chỉ còn lại một nghệ sĩ ca trù am hiểu tường tận và có thể biểu diễn lại điệu múa đã từng được diễn trong chốn cung đình xưa, đó là NSƯT Phó Kim Đức.

Kim Đức là con gái quản ca Phó Đình Ổn của giáo phường ca trù Khâm Thiên nức tiếng Hà Nội đầu thế kỷ 20. Kim Đức bắt đầu học hát từ năm 7 tuổi, đến năm 13 tuổi bắt đầu ra nghề. Năm 1945, khi đào nương Kim Đức mới 15 tuổi, giáo phường Khâm Thiên dựng điệu múa bài bông tham gia buổi diễn quyên tiền cứu đói của giới nghệ sĩ Hà Nội tại Nhà hát Lớn, và đó cũng là lần cuối cùng bà biểu diễn điệu múa này.

Một năm trước, nhóm ca trù Tràng An của NSƯT Kim Đức và các học trò ra đời, nhà nghiên cứu Trần Ngọc Linh là một thành viên sinh hoạt trong nhóm này đã nghe nghệ sĩ Kim Đức kể về điệu múa bài bông. Thật tình cờ, khi Ngọc Linh đến viết bài về khu di tích Yên Tử, đại đức Thích Thanh Quyết - trụ trì các chùa thuộc khu di tích Yên Tử có ý định tổ chức một đội nhạc lễ cho nhà chùa, Ngọc Linh bèn giới thiệu với đại đức về điệu múa bài bông. Đại đức lập tức mời bà Kim Đức phục dựng điệu múa và kịp ra mắt dịp khai hội xuân Yên Tử 2008. Đây cũng  là một trong những điệu múa sẽ trình diễn tại Yên Tử trong Đại lễ Phật đản Liên hiệp quốc sắp tới.

…và những đề xuất

Múa chúc hỗ.

Viện Âm nhạc là đơn vị được Bộ Văn hoá-Thể thao và Du lịch giao nhiệm vụ lập hồ sơ quốc gia Hát ca trù người Việt trình UNESCO xét công nhận là Kiệt tác di sản truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại. Từ mấy năm nay, Viện đã tổ chức khảo sát, sưu tầm, nghiên cứu và hội thảo về ca trù. Trong quá trình khảo sát, sưu tầm, các nhà nghiên cứu tìm hiểu được rằng (cả trong sách Hán Nôm và lời kể của nghệ nhân), ngoài yếu tố chưa thống nhất được có bao nhiêu loại hình múa trong ca trù, thì mỗi điệu múa tại mỗi phường cũng được trình diễn khác nhau, mang sắc thái khác nhau. Ví như ở Bắc Ninh, ca trù cửa đình được mô tả: Đào tay cầm hai cái sinh đứng một mình hát thờ; trong lễ cửa đình có nhiều cặp (kép/đào) tham gia hát múa; phần bỏ bộ được múa vào lúc gần sáng do cô đào thể hiện; còn múa bài bông thường múa vào dịp giã đám...

Còn ca trù cửa đình ở Đông Môn, Hải Phòng lại được diễn theo cách cứ tế xong là đi ba tuần rượu, ba tuần múa và khi múa thờ quay mặt vào đình, khi múa không quy lưng vào cửa đình; đội hình múa lúc thì 4 người, lúc 6 người...

Từ những thông tin nhiều chiều về múa ca trù và so sánh nhỏ nêu trên, cho thấy tính dị bản của múa dân gian (ở từng địa phương, từng phường ca trù) là tất yếu đặc trưng của văn hoá nghệ thuật dân gian. Chính nhờ tính dị bản đó tạo nên sự phong phú, đa dạng và sức sống mãnh liệt của nghệ thuật diễn xướng ca trù. Bởi vậy, việc kêu gọi các nhà nghiên cứu, nhà khoa học cùng trao đổi, đưa ra những đề xuất thích đáng để bảo tồn và phát huy sức sống vốn có của ca trù, trước mắt là hoàn tất hồ sơ ca trù trình UNESCO đang được Viện Âm nhạc thực hiện.

Đề xuất các phương án, ông Lê Văn Toàn-Viện trưởng Viện Âm nhạc cho rằng: Cần xác định tên gọi các hình thức múa trong ca trù (theo tư liệu văn bản Hán Nôm, theo sách xuất bản hay theo trí nhớ của nghệ nhân...?); Xác định tiêu chí phân loại cho múa; Đánh giá, nhận định và đề ra những phương thức tổ chức phục hồi, bảo tồn các hình thức múa trong ca trù. Nhạc sĩ Đặng Hoành Loan và nhà nghiên cứu Nguyễn Thuỵ Loan đều cho rằng, nên dựa vào nghệ nhân dân gian-báu vật nhân văn sống đang lưu giữ những hình thức múa ca trù, vì chỉ có họ mới có khả năng làm sống lại những điệu múa ca trù. Để có thể dựa vào họ, cần phải có ngay chính sách hỗ trợ vật chất để họ có điều kiện truyền dạy cho thế hệ trẻ.

Có thể bạn quan tâm