Gia đình bên vợ anh Ngừng định cư tại Tiêu Sơn (Ðoan Hùng, Phú Thọ). Vùng này bạt ngàn là cọ. Từ nguyên liệu tận thu là cẳng cọ có thể dệt mành cọ. Sản phẩm này có đầu ra lớn và ổn định. Mành của ông Luân (bố vợ anh Ngừng) một thời qua đường xuất khẩu đã có mặt ở Ðông Âu, Liên Xô. Làm mành cọ có thu nhập, công việc không nặng nhọc lắm. Thế là Mai Văn Ngừng lập nghiệp luôn ở Tiêu Sơn và theo nghề của bố vợ.
Tuy nhiên, để có được một chiếc mành cọ ưng ý, đủ tiêu chuẩn xuất khẩu phải trải qua nhiều công đoạn, mất nhiều thời gian nhất vẫn là khâu vót nan. Anh Ngừng cứ băn khoăn rằng, làm ngày, làm đêm mà vẫn không đủ nan cho dệt mành. Một ý tưởng về chiếc máy vót nan cọ hình thành trong anh. Ðể sáng chế chiếc máy vót nan cọ hoàn thiện như ngày nay, phải mất gần ba năm. Có chút kiến thức về cơ khí từ ngày là lái xe ở Ðoàn 559, lại có sự động viên, khuyến khích của vợ và bạn bè, anh nhiều lần chế thử và đã thành công, cho ra đời chiếc máy chẻ, vót nan cọ. Nhưng máy vẫn còn một số khiếm khuyết như nan chẻ chưa đều, còn có độ dày, mỏng của nan khi vót, lưỡi dao mòn nhanh. Anh tiếp tục nghiên cứu, thử nghiệm và đến tháng 8-2005 máy đùn ra những nan cọ đều tăm tắp, óng mượt, không nan nào bị bỏ. Chiếc máy còn có công dụng chẻ, vót mây, nứa, nan tre.
Trước khi cho ra đời máy chẻ, vót nan cọ, anh Ngừng còn "sáng chế" cả máy xay giò, máy xay xát đỗ, rất tiện lợi và năng suất cao gấp nhiều lần làm thủ công. Ngay sau khi chiếc máy vót nan cọ ra đời, Hội Cơ khí nông nghiệp Việt Nam đã mời anh gia nhập Hội.
Gần 40 triệu đồng thu nhập một năm từ làm mành cọ và chăn nuôi (đã trừ chi phí), hai vợ chồng anh có đủ điều kiện để chăm lo cho các con học hành. Từ ngày sáng chế máy vót nan cọ, công việc của từng thành viên trong gia đình đỡ vất vả hơn. Anh cũng hướng dẫn, truyền nghề cho nhiều người.