Ở Bình Ðịnh, thời trước hầu như ai cũng ăn trầu. Vì thế nghề lái trầu đã giúp Biện Nhạc (Nguyễn Nhạc) gây dựng nên cơ nghiệp của Nhà Tây Sơn.
Hồi ấy, con trai, con gái tới tuổi thành niên thường bắt đầu ăn trầu. Thuở mới về làm dâu, mẹ tôi chưa biết ăn trầu, nhưng vì được ông nội tôi khuyến khích (ông nội tôi rất nghiện trầu, nhưng cha tôi thì không ăn vì ông sợ) nên bà đã ăn thử rồi nghiện luôn đến giờ. Vì nghiện trầu nên nhà nào cũng trồng một vài cọc trầu và cây rễ trong vườn. Dây trầu bò lên cây cau, cây dừa hoặc cây bồ ngót tàu. Cây rễ cao, lá thuôn dài, cành suông. Khi ăn, người ta chặt cành, bóc vỏ đánh thành nài (như nài cày, nhưng nhỏ hơn) rồi đem thui lửa, phơi khô dùng dần. Nếu hôm nào đi chợ quên mua rễ, người ta hái nụ hoa chim chim ăn tạm thay rễ. Chim chim là loại cây như dú dẻ, hoa thơm, trái hình rẻ quạt như nhánh chuối, nhưng rất nhỏ, hạt to, khi chín mầu đỏ, ăn có vị ngọt.
Khi ăn trầu, người ta dùng vôi quết nhẹ lên mảnh lá trầu tươi đã cắt xéo, gập lại cho vôi nằm ở giữa rồi bỏ vô miệng nhai. Vôi ăn trầu là vôi chín mầu đỏ hồng, hay trắng. Ăn trầu nhất thiết phải có vôi, không có vôi, trầu không đỏ, không nồng, vị nhạt như nước ốc, bởi thế mới có câu ca dao: Có trầu, có vỏ không vôi - Có chăn có chiếu không người nằm chung.
Ðể có miếng trầu ngon, thì ngoài cách têm trầu cho đẹp, cho khéo, còn phải biết cách quệt vôi sao cho vừa ăn. Nếu quệt nhiều, miếng trầu cay xé, quệt ít thì không đủ nồng: Tội tình thiếp lắm chàng ơi - Trầu ăn không đỏ vì vôi quệt già. Ðể tăng thêm vị đậm đà, nhiều người còn dùng thuốc rê (lá thuốc xắt thành sợi nhỏ), vo thành viên nhỏ như viên bi, lăn qua lăn lại tạo cảm giác ngon miệng. Những khi hết thuốc, mẹ tôi thường lấy đỡ vài điếu thuốc Nam Dương tháo ra xài tạm, nhưng bà bảo không ngon bằng thuốc rê.
Các loại trầu, cau, thuốc, rễ đựng trong cơi trầu (mẹ tôi gọi là cão trầu) bằng tre, nhỏ xinh như chiếc rá gạo bây giờ. Chiếc cơi trầu cũng đi vào ca dao bằng lời tỏ tình rất dễ thương của chàng trai trẻ: Ước gì anh hóa ra cơi - Ðể cho cơi đựng cau tươi trầu vàng - Ước gì anh cưới được nàng - Mai sau anh trả lại nàng đôi mâm. Ngày nay cơi trầu được thay bằng rổ nhựa, tuy tiện lợi nhưng ít thẩm mỹ hơn nhiều. Ngoài cơi trầu, còn có đãy trầu. Khi đi ra ngoài, thì có đãy trầu bằng vải luôn dắt theo người, gặp ai cũng lấy ra mời như người ta mời thuốc lá bây giờ. Các ông, các bà không có đãy trầu thì bỏ vào hai túi áo vạt hò, áo bà ba, để khi ra đồng có cái ăn đỡ thèm. Vì thế túi áo ai cũng sẫm mầu cổ trầu, đặc biệt là hai ngón tay trỏ và tay cái.
Miếng trầu đã trở thành vật giao duyên khá độc đáo của các chàng trai cô gái: Yêu nhau trao một miếng trầu - Giấu thầy giấu mẹ trao sau bóng đèn, hoặc: Ðêm trăng thiếp mới hỏi chàng - Cau tươi ăn với trầu vàng xứng không? - Trầu vàng nhá với cau xanh - Duyên em sánh với tình anh tuyệt vời.
Người già răng yếu, khi ăn trầu dùng "ống xoáy trầu" nghiền cho dập trầu cau, rễ trong xoáy trước khi dùng. "Ống xoáy" làm bằng gỗ, sau bằng đồng, thời đánh Mỹ làm bằng vỏ đạn đại liên to bằng ngón chân cái, cưa bớt phần ngọn, còn phần đáy cao độ ba bốn phân. Ðể có cây giã trầu, người ta cắt một đoạn thép gai dài bằng cây bút bi đập dẹt một đầu, đầu kia uốn vòng tròn để dễ cầm và xỏ dây cột vào đáy ống xoáy cho khỏi thất lạc. Sau khi trầu, cau, rễ được bỏ vào ống xoáy, người ăn trầu dùng cây sắt chọt vào ống cho dập trầu, làm mềm rễ.
Người ăn trầu thường nhuộm răng đen, với cách nhuộm này mà mẹ tôi cũng như nhiều cụ khác trong thôn giữ được hàm răng đen bóng trong hơn nửa thế kỷ. Các cụ quan niệm răng càng đen càng đẹp, nhưng càng về sau, tục ăn trầu giảm dần, chỉ còn những bà cụ già. Vì thế, tục nhuộm răng càng về sau càng mất dần, và khi văn hóa phương Tây du nhập thì không còn ai nhuộm răng và cũng ít người ăn trầu, chỉ lại vài cụ bà đã trên bảy tám mươi tuổi như mẹ tôi. Nhuộm răng ăn trầu là một nét độc đáo của không chỉ người Bình Ðịnh, mà trong quá khứ, nó đã trở thành một sản phẩm văn hóa mang đậm sắc thái của phong cách Á Ðông.