Nam Bộ kháng chiến


Ngay sau khi giành chính quyền, các địa phương Nam Bộ ra sức củng cố, xây dựng lực lượng vũ trang. Lâm ủy hành chính Nam Bộ được đổi thành Ủy ban Nhân dân Nam Bộ. Ở Sài Gòn, có lực lượng vũ trang của Tổng công đoàn Nam Bộ, Cộng hòa Vệ binh... Ðêm 4-9-1945, các đơn vị vũ trang công nhân tổ chức mít-tinh tuyên thệ trước bàn thờ Tổ quốc: "Không nản chí trước khó khăn, không lùi bước trước hiểm nguy để cùng đồng bào bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn non sông".

Bên cạnh các đội vũ trang công nhân trong nội thành, nhiều nhóm vũ trang nhỏ lẻ, thành phần chủ yếu là nông dân ở vùng ngoại thành Sài Gòn-Gia Ðịnh, do các đảng viên cộng sản tổ chức chỉ huy hình thành ở Hóc Môn, Bà Ðiểm, Ðức Hòa, Cần Giuộc, Gò Vấp, Dĩ An, Thủ Ðức... Các đội Xung phong công đoàn và nhóm vũ trang này là lực lượng vũ trang nòng cốt tại chỗ của Sài Gòn-Gia Ðịnh trong những ngày đầu giành được độc lập. Ngoài ra, là các đơn vị vũ trang khác, hình thành trong những bối cảnh khác nhau.

Chủ động đối phó với âm mưu và thủ đoạn của địch, Ủy ban Nhân dân Nam Bộ ra lệnh cho các sư đoàn Cộng hòa Vệ binh và sư đoàn Dân quân cách mạng rút ra vùng ngoại ô. Tại nội thành Sài Gòn có 6.000 đoàn viên công đoàn xung phong, 2.000 thanh niên xung phong và công an xung phong, chia thành 320 đội tự vệ chiến đấu và một số tiểu đoàn Cộng hòa vệ binh tuần tra canh gác công sở. Tuy mới hình thành, tổ chức còn phân tán, trang bị thô sơ, song với lòng yêu nước và nhiệt tình cách mạng, các đơn vị vũ trang Nam Bộ đã quyết tâm bảo vệ nền độc lập của dân tộc.

Sáng 23-9-1945, quân Pháp được quân Anh giúp sức đã bất ngờ nổ súng đánh chiếm một số công sở của ta ở thành phố Sài Gòn, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam một lần nữa. Lập tức, các đơn vị tự vệ, thanh niên xung phong đã chiến đấu quyết liệt ở dinh Ðốc lý, đường Véc-đoong (nay là đường Cách mạng Tháng Tám), đường Nô-rô-đôm (nay là đường Lê Duẩn). Tại nhiều địa điểm trong thành phố, các đơn vị vũ trang và đồng bào ta chiến đấu quyết liệt, ngăn chặn bước tiến của quân thù.

Cùng sáng 23-9, Xứ ủy và Ủy ban Nhân dân Nam Bộ họp quyết định phát động lực lượng vũ trang và nhân dân kiên quyết chống thực dân Pháp xâm lược và điện gấp ra Trung ương Ðảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh xin chỉ thị. Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thường vụ Trung ương Ðảng nhất trí với quyết tâm của Xứ ủy và Ủy ban Nhân dân Nam Bộ kháng chiến chống thực dân Pháp và kêu gọi các địa phương trong cả nước chi viện sức người, sức của cho Nam Bộ, đồng thời quyết định thành lập các đơn vị Giải phóng quân Nam tiến vào nam sát cánh cùng quân dân Nam Bộ chiến đấu. Ngày 26-9, trong thư "Gửi đồng bào Nam Bộ", Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: "Tôi chắc và đồng bào cả nước đều chắc vào lòng kiên quyết ái quốc của đồng bào Nam Bộ... Tôi chắc và đồng bào Nam Bộ cũng chắc rằng Chính phủ và toàn quốc đồng bào sẽ hết sức giúp những chiến sĩ và nhân dân hiện đang hy sinh tranh đấu để giữ vững nền độc lập của nước nhà".

Thực hiện chỉ thị của Trung ương Ðảng và Nghị quyết Hội nghị Xứ ủy, Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ quyết định chia nội thành Sài Gòn thành 16 khu vực tác chiến và xác định nhiệm vụ trước mắt là đánh kìm giữ quân địch trong thành phố một thời gian dài để các cơ quan lãnh đạo của Xứ ủy và thành phố chuyển về các căn cứ vùng nông thôn, rừng núi hiểm yếu, lãnh đạo, chỉ đạo chuẩn bị kháng chiến lâu dài.

Ngày 24-9, Tổng công đoàn Nam Bộ hiệu triệu giai cấp công nhân sát cánh cùng toàn dân kháng chiến. Nhân dân triệt để thực hiện chủ trương không hợp tác với địch. Tất cả công sở, hiệu buôn lập tức đóng cửa. Các xí nghiệp ngừng hoạt động. Chợ không họp. Nhà máy điện, nhà máy nước bị phá. Nhân dân, tự vệ, công nhân, cảnh sát xung phong, thanh niên, sinh viên lập chướng ngại, đắp ụ, lập các ổ chiến đấu ngăn chặn địch. Cả Sài Gòn-Chợ Lớn vào trận trong tiếng ca vang: "Mùa thu rồi ngày hai ba, ta đi theo tiếng kêu sơn hà nguy biến. Rền khắp trời lời hoan hô dân quân Nam nhịp chân tiến ra trận tiền. Thuốc súng kém, chân đi không mà lòng người giàu lòng vì nước.  Súng với giáo mang ngang vai nhưng thân trai nào kém oai hùng." Ngày 26-9, các đơn vị vũ trang ta đánh chặn đoàn xe địch ở Bình Ðức và tập kích ngã ba Nhà Làng. Tiếp đó, ngày 27, tổ chức đánh địch ở Thị Nghè, Cầu Quay. Những ngày cuối tháng 9, ta tiếp tục tập kích địch trên đường Ca-ti-na và nhiều nơi khác. Chiến sự lan rộng ra vùng ngoại ô với nhiều trận đánh diễn ra quyết liệt. Trong một tuần, bằng lối đánh du kích, khi ẩn, khi hiện, đột nhập thình lình phá hoại rồi rút đi, các đội cảm tử, đội tự vệ, công nhân xung phong đã phá hủy, phá hỏng 160 nhà kho, xí nghiệp, 80 tàu xuồng, 200 xe hơi, 20 đầu máy xe lửa, vây hãm quân địch trong thành phố.

Bị thất bại trong kế hoạch dùng sức mạnh quân sự ban đầu, Pháp đề nghị thương lượng với Ủy ban Nhân dân Nam Bộ, hòng chờ viện binh tới. Mặc dù biết rõ kế hoãn binh của địch, nhưng để biểu thị lập trường chính nghĩa, Chính phủ lâm thời ta cử đại diện đàm phán với Pháp. Ngày 2-10, Pháp đưa thêm quân sang và ngày 5-10, Lơ-cléc, Tổng tư lệnh lực lượng viễn chinh Pháp ở Ðông Dương tới Sài Gòn. Sau ba lần gặp gỡ, cuộc đàm phán hai bên không đạt kết quả. Vừa tới Sài Gòn, Lơ-cléc vạch kế hoạch chuẩn bị lực lượng tiến công phá vòng vây quanh Sài Gòn và đánh nống ra các tỉnh lân cận.

Trong lúc đàm phán với Pháp, ta tổ chức bốn mặt trận bao vây xung quanh Sài Gòn-Gia Ðịnh: Mặt trận số 1 (Mặt trận Sài Gòn-Gia Ðịnh, Mặt trận phía Ðông), Mặt trận số 2 (Mặt trận phía Bắc, Mặt trận Tham Lương), Mặt trận số 3 (Mặt trận tiền tuyến phía Tây, Mặt trận Phú Lâm - Chợ Ðệm), Mặt trận số 4 (Mặt trận phía Nam, Mặt trận Sài Gòn-Chợ Lớn). Bốn mặt trận bao quanh Sài Gòn tạo thành vành đai bao vây quân địch trong nội đô.

Tại nội thành, lực lượng vũ trang ta đẩy mạnh các hoạt động tập kích, quấy rối cản trở địch tổ chức lực lượng tiến công giải vây. Ngày 10-10, các đội Thanh niên xung phong, Công đoàn xung phong và một số đơn vị bộ đội tiến công địch ở khu vực Ða Kao-Tân Ðịnh, đồn cảnh sát trên đường Bô-na, Câu lạc bộ sĩ quan trên đường Nô-rô-đôm, gây cho địch một số thiệt hại. Trong ba ngày (từ 13 đến 15-10), quân ta mở nhiều trận chiến đấu ở cầu Hang, Gò Vấp, Chợ Lớn, Phú Lâm, Tân Sơn Nhất. Ngày 17-10, ta phục kích đánh thiệt hại nặng một đoàn xe địch ở cầu Tham Lương.

Ngày 18-10, tại phòng tuyến Thị Nghè, quân ta đánh chặn quyết liệt các đợt tiến công của địch, diệt và làm bị thương hàng trăm tên, thu nhiều vũ khí. Tiếp đó, lực lượng vũ trang ta tiến công địch ở khu vực ga xe điện Năng-xi, cầu Tham Lương, cầu Chữ Y... gây cho chúng một số thiệt hại.

Sau khi được tăng cường lực lượng, từ cuối tháng 10-1945, Lơ-cléc bắt đầu đẩy mạnh kế hoạch phá vây, mở rộng đánh chiếm ra vùng xung quanh Sài Gòn và các tỉnh Nam Bộ. Từ đây, cuộc chiến đấu của quân và dân Nam Bộ chuyển sang giai đoạn mới.

Sau hơn một tháng chiến đấu, lực lượng vũ trang và nhân dân Sài Gòn-Gia Ðịnh được các tỉnh lân cận hỗ trợ, đã chiến đấu dũng cảm, ghìm chân địch trong thành phố, làm thất bại âm mưu đánh nhanh, thắng nhanh của chúng, tạo điều kiện cho quân  dân Nam Bộ và cả nước có thời gian chuẩn bị kháng chiến lâu dài.

Nhằm đáp ứng với yêu cầu của cuộc kháng chiến, ngày 15-10, Hội nghị cán bộ Ðảng Nam Bộ quyết định tăng cường củng cố, xây dựng tổ chức Ðảng, xây dựng lực lượng vũ trang. Tiếp đó, ngày 20-10, Hội nghị quân sự Nam Bộ quyết định thống nhất lực lượng, chỉ huy, tổ chức lại bộ đội, phân chia khu vực hoạt động của lực lượng vũ trang, thống nhất tên gọi các đơn vị là Giải phóng quân.

Trước tình hình địch mở rộng cuộc tiến công ra vùng đồng bằng sông Cửu Long, ngày 25-10, Hội nghị Xứ ủy Nam Bộ mở rộng đã quyết định tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng đối với lực lượng vũ trang. Ðồng chí Tôn Ðức Thắng được cử phụ trách Ủy ban Kháng chiến và chỉ đạo lực lượng vũ trang Nam Bộ. Nhiều cán bộ, đảng viên được đưa về phụ trách các ban quân sự, ban tham mưu các tỉnh và nắm chỉ huy trong các đơn vị vũ trang địa phương. Ðây là chủ trương hết sức đúng đắn của Xứ ủy Nam Bộ nhằm thống nhất tổ chức chỉ đạo, chỉ huy và tăng cường vai trò lãnh đạo tuyệt đối của Ðảng đối với lực lượng vũ trang Nam Bộ.

Phát huy tinh thần chiến đấu của các đơn vị vũ trang Sài Gòn-Gia Ðịnh, lực lượng vũ trang các tỉnh Nam Bộ đã chiến đấu dũng cảm, ngăn chặn địch khi chúng đánh rộng ra vùng đồng bằng sông Cửu Long. Ngày 25-10, tại Mỹ Tho, lực lượng Cộng hòa vệ binh và du kích đánh chặn các mũi tiến công của địch vào thị xã, gây cho chúng một số thiệt hại, sau đó rút ra ngoài để bảo toàn lực lượng. Ở Gò Công, các đơn vị vũ trang ta chặn địch ở phòng tuyến Cầu Nổi, sau đó tổ chức bao vây địch ở thị xã Gò Công. Ngày 27-10, các đơn vị vũ trang Vĩnh Long đánh lui nhiều đợt tiến công của địch, sau đó rút ra ngoài tổ chức chiến đấu quấy rối địch trong thị xã kéo dài ba tháng. Ngày 30 và 31-10, các đơn vị vũ trang Cần Thơ anh dũng chiến đấu, bẻ gãy các đợt tiến công của địch vào thị xã.

Trong hai tháng 11, 12-1945 và tháng 1-1946, các đơn vị vũ trang cùng nhân dân các tỉnh Cần Thơ, Vĩnh Long, Trà Vinh, Sóc Trăng, Sa Ðéc, Bạc Liêu, Long Xuyên, Châu Ðốc, Rạch Giá, Hà Tiên đã chiến đấu ngăn chặn làm chậm bước tiến của quân địch, gây cho chúng một số thiệt hại. Song do lực lượng chênh lệch không lợi cho ta, Xứ ủy Nam Bộ chỉ đạo lực lượng vũ trang các tỉnh sau khi đánh kìm giữ quân địch trong các thị xã một thời gian, đã rút ra các căn cứ bên ngoài, duy trì lực lượng kháng chiến lâu dài.

Ngày 2-2-1946, Xứ ủy Nam Bộ họp quyết định chuyển lực lượng vũ trang của hai chiến khu 8 và 9 lên chiến khu 7 (Ðông Nam Bộ) củng cố, làm nòng cốt cho toàn dân kháng chiến. Trước đó, lực lượng vũ trang chiến khu 7 được hợp nhất tổ chức thành ba chi đội 1, 2 và 3, tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động đánh quấy rối, tiêu hao sinh lực địch, phá kế hoạch bình định vùng nông thôn của chúng.

Những tháng cuối năm 1945, cùng với việc đánh chiếm vùng nông thôn Nam Bộ, thực dân Pháp đánh rộng ra các tỉnh Nam Trung Bộ và Tây Nguyên. Cũng như ở Nam Bộ, lực lượng vũ trang ta ở Nam Trung Bộ và Tây Nguyên đã kiên cường, mưu trí chiến đấu, tiêu hao một bộ phận sinh lực địch, duy trì được lực lượng để kháng chiến lâu dài.

Thực hiện lời kêu gọi của Trung ương Ðảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, những tháng cuối năm 1945 và đầu 1946, lực lượng vũ trang và nhân dân các địa phương trên cả nước đã khẩn trương chi viện sức người, sức của cho Nam Bộ, Nam Trung Bộ và Tây Nguyên kháng chiến. Sôi nổi, rầm rộ là phong trào Nam tiến, hầu hết mỗi tỉnh ở Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ, tổ chức từ một đến hai chi đội, tiêu biểu là các chi đội Nam Long, Vi Dân, Bắc Bắc, Thu Sơn, Hùng Việt... lần lượt hành quân vào Nam chiến đấu. Ðồng thời, kiều bào ta ở Thái-lan, Cam-pu-chia, Lào cũng tổ chức các chi đội hải ngoại mang những tên Ðộc lập số 1, Quang Trung, Trần Phú, Cửu Long 2 từ nước ngoài về Nam Bộ. Các đơn vị vũ trang từ bắc vào, từ nước ngoài về đã góp phần tăng thêm sức mạnh cho lực lượng vũ trang và nhân dân Nam Bộ chiến đấu, ngăn chặn bước tiến của quân địch, tạo điều kiện cho Trung ương Ðảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, lấy xây dựng và phát triển bộ đội chủ lực Giải phóng quân làm nòng cốt cho cả nước  kháng chiến lâu dài.

Với ý chí sắt đá vì độc lập, tự do và thống nhất Tổ quốc, lực lượng vũ trang cùng nhân dân miền nam đi đầu trong sự nghiệp kháng chiến, đã ngăn chặn một bước sự xâm lược của thực dân Pháp, đánh đòn đầu tiên vào âm mưu và hành động đánh nhanh, thắng nhanh của thực dân Pháp, góp phần to lớn vào công cuộc đấu tranh giữ vững chính quyền nhân dân, chủ quyền dân tộc. Cuộc kháng chiến anh dũng của Nam Bộ, Nam Trung Bộ và Tây Nguyên cống hiến những kinh nghiệm đầu tiên nóng hổi, hết sức quý báu cho nhân dân cả nước kháng chiến. Nam Bộ xứng đáng danh hiệu Thành đồng Tổ quốc.

Có thể bạn quan tâm