Tục bắt chồng có nhiều dị bản nhưng lần này tôi được tường tận nghi thức đám cưới truyền thống của người Cơ Ho Cil ở buôn Ðưng K’si, xã Ðạ Chais, huyện Lạc Dương, Lâm Ðồng. Giữa sân nhà truyền thống của buôn làng, cây nêu được dựng lên, bếp lửa đã sẵn sàng để mời gọi bà con buôn làng vào không gian lễ cưới truyền thống của Sắk Kly và sơn nữ K’Năm.
Dù đã qua mấy chục mùa rẫy, nhưng già làng Sa Nga vẫn bồi hồi khi dự lễ tơm bau (cưới xin), già cho biết: “Người Cơ Ho theo chế độ mẫu hệ, sơn nữ bắt chồng, đàn ông thường sống bên nhà vợ. Tự do hôn nhân, khi cô gái thích chàng trai nào đó thì chủ động nói với cha mẹ nhờ người mai mối có tài ăn nói, cùng với ông cậu đến nhà chàng trai ngỏ ý. Có khi phải nhiều lần thuyết phục, hoặc “đấu trí” mới được”.
Không gian bập bùng trong tiếng chiêng, điệu kèn m’buốt, câu lảh lông giao duyên tình tự, gọi mời: “Tôi đi tìm bông hoa prăc/ Tôi đi hái bông hoa krài/ Tôi đi tìm bông hoa giữa đồng…”. Luật tục Cơ Ho có câu rằng: “Làm bẫy phải hỏi thần núi/Ăn rừng phải hỏi bon (buôn) làng/ Tìm vợ, tìm chồng phải hỏi mẹ cha”. Trước khi muốn lấy chồng, tìm vợ phải nhờ đến các vị già làng, trưởng dòng họ, là những người có uy tín và trách nhiệm của buôn làng.
Mặt trời đã ngả về phía núi xa, lễ chạm ngõ bắt đầu. Cha mẹ, cậu và người mai mối cùng con gái muốn bắt chồng sửa soạn lễ vật gồm sợi cườm, vòng đồng, nếu nhà gái khá giả có thể trao vòng bạc; tô… để kéo sang nhà trai. Tại đây, cuộc “thương lượng” bắt đầu, với cuộc trò chuyện trao đổi, nhiều đám diễn ra hát đối đáp ý nhị giữa hai họ, cốt là để nhà trai đồng ý cho nhà gái bắt chồng. Nếu lễ vật nhà trai đưa ra vượt quá khả năng của nhà gái, thì xin khất nợ và khi nào có điều kiện thì trả. “Ðám hỏi của người Cơ Ho, vai trò của người mai mối quyết định sự thành bại của hôn nhân. Khi chàng trai đã chấp nhận chiếc vòng cầu hôn và gia đình đằng trai đồng ý, coi như đám hỏi thành công”, già Sa Nga nói.
Trước ngày diễn ra lễ cưới như đã định, người Cơ Ho thường tổ chức lễ nhấc chân, đưa chú rể đến nhà gái. Lúc này, họ hàng bên trai ấn định của hồi môn cho con trai, thường là chiêng, ché, trâu, bò… Sau khi khách ra về, gia đình hai bên thống nhất ngày giờ rước rể. Ðến ngày đã định, chú rể cùng với gia đình, bạn bè và người mai mối kéo đến nhà gái dự lễ rước rể. Nhà gái mời nhà trai uống rượu và hát xướng. Nghi lễ cúng Yàng được tổ chức nhằm cầu chúc cho đôi vợ chồng trẻ hạnh phúc. Sau lễ này, đôi trai gái chính thức bước vào đời sống vợ chồng. Ðám cưới lớn (tam lir) diễn ra ngay sau đó, nếu gia đình nhà gái có điều kiện; không thì khất nợ với buôn làng đến khi có điều kiện sẽ tổ chức.
Tục bắt chồng hiện vẫn phổ biến ở các buôn làng nam Tây Nguyên, do đồng bào Cơ Ho, Chu Ru, M’Nông… vẫn còn giữ chế độ mẫu hệ. Ðiều cốt lõi trong chuyện trao “vòng tay cầu hôn” vẫn là tự do yêu đương, lễ dạm hỏi, lễ cưới và chàng trai về sống bên nhà vợ. Trường hợp đặc biệt, cô dâu vẫn có thể cư trú bên nhà chồng. Nhưng con cái vẫn mang họ mẹ và tài sản thừa kế thuộc về nữ giới.