Mặt trận đấu tranh ngoại giao trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước

Nghị quyết của Hội nghị Trung ương chỉ rõ: "Ðấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị ở miền nam là nhân tố chủ yếu quyết định. Thắng lợi trên chiến trường, làm cơ sở cho thắng lợi trên mặt trận ngoại giao. Chúng ta chỉ có thể giành được trên bàn hội nghị những cái mà chúng ta đã giành được trên chiến trường". Tuy nhiên, trong điều kiện mới, đấu tranh ngoại giao giữ một vai trò quan trọng, tích cực và chủ động.

Nhiệm vụ đấu tranh ngoại giao được hội nghị xác định là đòi Mỹ chấm dứt không điều kiện và vĩnh viễn việc ném bom và mọi hành động chiến tranh khác chống Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tại hội nghị này, Ðảng đề ra phương châm cơ bản của đấu tranh ngoại giao và phương pháp đấu tranh mềm dẻo, thích hợp để giành thắng lợi từng bước. Hội nghị Trung ương lần thứ 13 đã đặt dấu mốc quan trọng cho mặt trận đấu tranh ngoại giao, từ đây vị thế của đấu tranh ngoại giao được nâng lên một tầm mức mới, kết hợp chặt chẽ với đấu tranh quân sự và chính trị trên chiến trường.

Cuộc tổng tiến công và nổi dậy dịp Tết Mậu Thân 1968 của quân và dân ta vào các mục tiêu quân sự, chính trị trọng yếu ở các đô thị lớn của miền nam cùng với những thắng lợi của miền bắc trong chống chiến tranh phá hoại, đã buộc đế quốc Mỹ đơn phương xuống thang chiến tranh bằng việc ngừng các hành động đánh phá của không quân xuống miền bắc Việt Nam từ vĩ tuyến 20 trở ra, xem xét kế hoạch rút quân Mỹ ra khỏi miền nam Việt Nam, cử đại diện đàm phán với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Ngày 13-5-1968, cuộc tiếp xúc ngoại giao đầu tiên giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mỹ khai màn cho quá trình đàm phán trên bàn hội nghị. Tuy nhiên, ngay từ đầu, Mỹ đã dùng nhiều thủ đoạn ngoại giao rất xảo quyệt như đàm phán trên thế mạnh, tìm mọi cách gây sức ép với ta từ nhiều phía, hòng làm giảm thắng lợi trên chiến trường và vị thế ngoại giao của ta trên bàn hội nghị Paris. Chỉ đến khi, Tổng thống Mỹ Johnson tuyên bố chấm dứt ném bom miền bắc, ta và Mỹ mới đạt được thỏa thuận về một hội nghị gồm bốn bên Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Mặt trận dân tộc giải phóng miền nam Việt Nam (sau này là Chính phủ Cách mạng lâm thời cộng hòa miền nam Việt Nam), Mỹ, Việt Nam cộng hòa.

Bước vào hội nghị bốn bên, bắt đầu từ ngày 16-1-1969, hai đoàn của ta luôn nêu cao ngọn cờ độc lập tự chủ, ngọn cờ chính nghĩa của cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước để đấu lý với Mỹ - ngụy; ta kiên quyết, khôn khéo, kịp thời đẩy lùi lập luận xuyên tạc, ngụy biện và các thủ đoạn ngoại giao lừa bịp của địch. Cuộc đấu tranh trên bàn đàm phán diễn ra phức tạp, gay go và luôn gắn chặt với diễn biến trên chiến trường. Giữa năm 1971, sau những thắng lợi quan trọng của ta ở đông bắc Cam-pu-chia và Ðường 9 - Nam Lào, mặt trận đấu tranh ngoại giao có điều kiện thuận lợi hơn để ép Mỹ xuống thang chiến tranh, đồng thời kiên quyết giữ vững mục tiêu chủ yếu của ta là giữ được quân đội trên chiến trường miền nam. Ðể tăng sức ép với Mỹ, ta đã phối hợp đấu tranh trên diễn đàn bí mật và diễn đàn công khai, đưa những đề nghị xây dựng để tranh thủ dư luận. Có thể nói, trên mặt trận này, ta luôn giành thế chủ động tiến công địch, gắn cuộc đấu tranh ngoại giao với các mặt đấu tranh quân sự, chính trị, tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn, từng bước làm thất bại các mục tiêu của chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" và làm thất bại âm mưu, thủ đoạn đàm phán trên thế mạnh của Mỹ. Do đó, Mỹ dù ngoan cố bám giữ âm mưu thôn tính miền nam Việt Nam, nhưng trước thắng lợi to lớn của quân và dân ta trong tiến công chiến lược 1972, trực tiếp là chiến công xuất sắc đập tan cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B52 vào Hà Nội, Hải Phòng 12 ngày đêm cuối năm 1972 (từ 18 đến 29-12-1972), cùng với sức ép của nhân dân Mỹ và dư luận thế giới, buổi chiều ngày 27-1-1973, Mỹ buộc phải ký chính thức Hiệp định về chấm dứt  chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Như vậy là, cuộc đấu trí, đấu lý gay go, căng thẳng trên bàn đàm phán Pa-ri giữa ta và Mỹ diễn ra trong bốn năm chín tháng (từ tháng 5-1968 đến tháng 1-1973), với 202 phiên họp công khai, 24 cuộc tiếp xúc riêng, đã kết thúc với thắng lợi thuộc về ta.

Thắng lợi tại Hội nghị Paris là kết quả quá trình đấu tranh của quân và dân ta dưới sự lãnh đạo của Ðảng trên cả ba mặt trận: quân sự, chính trị và ngoại giao, nhằm "đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào" theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thực hiện mục tiêu hòa bình, thống nhất nước nhà. Ðánh giá kết quả và ý nghĩa của việc ký kết Hiệp định Paris, đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Ðảng cho rằng: Thắng lợi chủ yếu của ta ở Hội nghị Paris là ở chỗ "Mỹ phải rút ra, còn quân ta thì ở lại". Từ đây, diễn ra sự thay đổi căn bản trong so sánh lực lượng giữa ta và địch, mở ra khả năng mới để quân và dân ta tiến lên hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền nam và đẩy mạnh công cuộc xây dựng hậu phương miền bắc, đưa sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước tới thắng lợi hoàn toàn.