Lóng lánh ngọc trai

Lóng lánh ngọc trai

Nhiều loại trai cho ngọc

Về nguyên tắc thì bất kỳ loại trai nào vỏ tương đối dày đều có thể cho ngọc. Nhưng ngọc trai đẹp thì thường chỉ thấy ở một số giống trai gọi là trai ngọc. Trai ngọc sống ở nước mặn, và cả ở nước ngọt. Trai nước ngọt có ngọc thường thấy ở sông, nhưng cũng thấy cả ở hồ. Ngọc của trai nước ngọt không bóng đẹp như ngọc trai biển. Ngọc trai thông thường thấy ở những trai biển, và trai ngọc Pteria martensii là loài cho ngọc đẹp.

Ngọc trai là thứ ngọc duy nhất do cơ thể sống tạo thành. Từ xa xưa loài người đã biết dùng ngọc trai làm đồ trang sức. Nghề mò ngọc trai dưới biển của người Lạc Việt đã nổi tiếng và được ghi trong sử sách từ mấy nghìn năm về trước. Năm 1880, một số người Nhật tiến hành thử nghiệm cấy ngọc trai nhân tạo. Phải mất 30 năm, trải qua bao gian khổ, ý tưởng này mới trở thành hiện thực.

Tuy nhiên, việc nuôi cấy ngọc trai hầu như chỉ mới tiến hành dưới biển. Nuôi cấy trai ngọc nước ngọt cũng mới xuất hiện trên thế giới cách đây chưa lâu. Ở Việt Nam, năm 1987 Xí nghiệp nuôi cá Hồ Tây nghiên cứu áp dụng kỹ thuật nuôi cấy trai ngọc nước ngọt tại Hồ Tây; đối tượng nghiên cứu thực nghiệm là các loài trai điệp Sinohyriopsis cumingu, trai cánh Cristaria bialata được tìm chọn từ nhiều nguồn sông, hồ trên miền bắc. Trai được nuôi dưỡng trong các lồng sắt đan bằng lưới cước. Sau 18 tháng nuôi dưỡng, trai đã được đưa lên giải phẫu lấy ngọc. Kết quả cho thấy, 358 con trai thuộc hai loài cumingu và bialata thu được tới 468 viên ngọc. Ngọc tròn, có đường kính từ 4 đến 8 mm. Một số ngọc đã được sử dụng làm đồ mỹ nghệ đem trưng bày và bán ra thị trường. So với ngọc trai nước mặn, ngọc trai thu được mầu sắc chưa được đa dạng bằng. Phần lớn ngọc có mầu tím sẫm, mầu hồng nhạt, mầu da đồng và một số mầu khác. Có thể nói, kết quả ban đầu như vậy là rất tốt đẹp, nhưng còn phải nghiên cứu thêm quy trình nuôi và chăm sóc để có tỷ lệ ngọc thương phẩm cao hơn và ngọc có nhiều mầu sắc rực rỡ hơn.

Trai ngọc thích sống ở vùng biển nước mặn, giàu rạn đá và đảo san hô. Trong các vùng đá san hô người ta thường gặp loài trai khổng lồ Tridacna squamosa, loài trai này vỏ có thể nặng vài chục ki-lô-gam, và dài gần một mét, lớn nhất hiện nay.

Các sản phẩm của trai ngọc đều có giá trị, thịt là một thực phẩm quý, vỏ dùng khảm đồ mỹ nghệ, và ngọc lóng lánh nhiều mầu sắc đẹp vừa dùng làm thuốc vừa là vật báu làm đồ trang sức. Bình thường viên ngọc trai có kích thước bằng hạt đậu, hoặc hạt ngô, nhưng cũng có những viên lớn hơn. Viên ngọc trên mũ miện Vua Phi-líp II (Tây Ban Nha) to bằng quả nhót. Viện Bảo tàng Anh còn giữ được viên ngọc dài trên mười cen-ti-mét.

Hình thành ngọc quý

Ngọc trai được hình thành như thế nào? Trong trường hợp có một vật thể lạ như một hạt cát nhỏ, hoặc một sinh vật nhỏ nào đó... lọt vào giữa lớp xà cừ và lớp áo trai thì sẽ ra sao? Lớp áo trai vẫn tiếp tục tiết ra chất xà cừ đè lên vật thể lạ đó. Càng ngày lớp xà cừ càng dày lên, làm thành một cục lồi phồng lên ở mặt trong của vỏ trai, đây chính là một hạt ngọc không hoàn chỉnh, một nửa hạt ngọc chứ không phải là một "hạt châu", người ta gọi nó là ngọc diệp, và cũng có giá trị sử dụng làm thuốc như hạt ngọc, nhưng không quý bằng.

Khi những vật lạ nói trên lọt sâu vào lớp tế bào sinh xà cừ, làm lớp này lõm hẳn và thành một cái túi. Với trạng thái đó, xà cừ tiết ra sẽ bao bọc chung quanh vật lạ thành những lớp đồng tâm, lâu dần thành một hạt ngọc. Tuy nhiên, hạt ngọc này cũng chưa phải là ngọc tròn, vì không phải lớp tế bào trên đã bao hết được chung quanh vật lạ. Do đó hạt ngọc còn nối liền với lớp xà cừ của vỏ trai bởi một cái cán nhỏ khiến cho hạt ngọc có hình quả lê. Nếu trường hợp các vật lạ lọt sâu vào lớp tế bào sinh xà cừ, làm thành một cái túi rất sâu có miệng túi rất hẹp, để về sau miệng túi liền hẳn. Có nghĩa là vật lạ lần này được bao bọc hoàn toàn bằng lớp tế bào tiết chất xà cừ của áo trai. Trong trường hợp này hạt ngọc hình thành sẽ là một "hạt châu" được nhiều người ưa chuộng, và là mặt hàng xuất khẩu có giá trị trên thị trường thế giới.

Con người có thể làm công việc nuôi cấy "hạt châu". Người ta nuôi trai lấy ngọc trong điều kiện tự nhiên ở biển bằng cách làm những hệ thống lồng treo, giàn treo... để nuôi các con trai ngọc ở trong đó. Như vậy người ta có thể di chuyển những hệ thống lồng, giàn nuôi đó đi chỗ này chỗ khác để tận dụng thức ăn cho trai, và có thể thay đổi độ nông sâu cho phù hợp với thời tiết. Chúng ta biết rằng, hạt ngọc tròn được hình thành trong một cái túi sinh ngọc. Cái túi này là lớp tế bào mặt ngoài của lớp áo trai tạo nên. Vậy muốn có ngọc tròn cũng phải tạo ra những cái túi như thế. Người ta lột một mảnh áo trai ra, cấy một hạt xà cừ rất nhỏ lên lớp tế bào tiết ra xà cừ, rồi làm thành một cái túi bao lấy nhân ngọc. Sau vài năm, các túi ấy vẫn hoạt động và vẫn tiết chất xà cừ để phủ lên hạt xà cừ đầu tiên kia. Và như thế là một "hạt châu quý" được hình thành. Ngọc trai nuôi cũng lớn chẳng kém gì ngọc trai tự nhiên. Còn về nước ngọc, dù có đặt hai hạt ngọc nhân tạo và tự nhiên cạnh nhau thì những người sành chơi ngọc cũng không thể phân biệt nổi.

Ðông y dùng ngọc trai với tên là "Trân Châu". Nó có vị ngọt mặn, tính hàn, vào hai kinh tâm và can; có tác dụng thanh nhiệt, trấn tâm, an thần, giải độc. Dùng làm thuốc trấn tĩnh tinh thần, chữa chứng nhức đầu gây mất ngủ.

Hạt ngọc được đập nhỏ, tán thành bột mịn. Khi dùng chiêu với nước đun sôi để ấm.

Có thể bạn quan tâm