Kinh tế dữ liệu đặt nền móng cho động lực tăng trưởng mới

Năm 2025 đánh dấu bước chuyển quan trọng khi kinh tế dữ liệu của Việt Nam không còn dừng ở khái niệm chính sách, mà từng bước được đặt vào kiến trúc phát triển quốc gia và đi vào thực tiễn địa phương.

Gian hàng của Viettel IDC trưng bày mô hình Trung tâm Dữ liệu Hòa Lạc.
Gian hàng của Viettel IDC trưng bày mô hình Trung tâm Dữ liệu Hòa Lạc.

Từ hoàn thiện thể chế, xây dựng hạ tầng dữ liệu đến những mô hình dữ liệu phục vụ điều hành, sản xuất ở cơ sở, bức tranh kinh tế dữ liệu đã dần thành hình, đồng thời bộc lộ những điểm nghẽn cần được khơi thông để bước sang giai đoạn phát triển thực chất hơn.

Kiến trúc dữ liệu quốc gia

Năm 2025 có thể xem là khoảng thời gian bản lề, khi kinh tế dữ liệu của Việt Nam chuyển từ nhận thức chính sách sang thiết kế kiến trúc phát triển cụ thể. Trước đây, dữ liệu chủ yếu được nhìn nhận như công cụ hỗ trợ chuyển đổi số thì nay đã được xác lập là tư liệu sản xuất mới, có vai trò trực tiếp đối với năng suất, đổi mới sáng tạo và năng lực cạnh tranh quốc gia. Nhấn mạnh tính chiến lược của nguồn lực này, Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Cương, Giám đốc Trung tâm Dữ liệu quốc gia, Phó Chủ tịch Hiệp hội Dữ liệu quốc gia khẳng định: Dữ liệu là “trái tim” của chuyển đổi số, là “bộ não” của kỷ nguyên vươn mình, thịnh vượng của dân tộc.

Dấu mốc quan trọng trong năm qua là việc từng bước hoàn thiện hành lang pháp lý về dữ liệu. Việc Quốc hội thông qua Luật Dữ liệu (Luật số 60/2024/QH15), cùng các luật liên quan như Luật Công nghiệp công nghệ số; Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân; Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo, đồng thời Chính phủ ban hành các nghị định hướng dẫn thi hành đã tạo nên khung pháp lý tương đối đồng bộ cho quản trị, khai thác và bảo vệ dữ liệu. Hành lang này vừa mở đường cho hình thành thị trường dữ liệu, thúc đẩy dữ liệu mở và các mô hình chia sẻ giữa Nhà nước, doanh nghiệp và xã hội, vừa bảo đảm an ninh, an toàn dữ liệu và quyền lợi chính đáng của người dân, doanh nghiệp.

Những bước đi nêu trên bám sát tinh thần Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, trong đó xác định rõ yêu cầu “làm giàu dữ liệu”, đưa dữ liệu trở thành tư liệu sản xuất chính và thúc đẩy phát triển nhanh cơ sở dữ liệu lớn, công nghiệp dữ liệu, kinh tế dữ liệu.

Không dừng ở thể chế, năm qua cũng ghi nhận bước tiến quan trọng trong tổ chức và điều phối dữ liệu ở tầm quốc gia. Việt Nam lựa chọn tiếp cận kinh tế dữ liệu thông qua việc xây dựng hệ thống dữ liệu quốc gia hiện đại, an toàn, liên thông, đồng thời giao Bộ Công an làm đầu mối điều phối thống nhất. Trên cơ sở đó, Trung tâm Dữ liệu quốc gia được xây dựng và đưa vào vận hành, từng bước hình thành hạ tầng dữ liệu tập trung, tin cậy - “xương sống” của nền kinh tế dữ liệu Việt Nam. Đến nay, cả nước đã hình thành hơn 340 cơ sở dữ liệu chuyên ngành; nhiều cơ sở dữ liệu quốc gia trọng điểm như dân cư, đất đai, đăng ký doanh nghiệp, bảo hiểm, hộ tịch điện tử đã đi vào vận hành ổn định. Cổng Dữ liệu quốc gia công bố hơn 10.300 bộ dữ liệu mở, tỷ lệ số hóa dữ liệu của các cơ quan nhà nước đạt khoảng 53%, riêng một số bộ, ngành và địa phương đạt hơn 80%...

Cùng với hoàn thiện thể chế, năm qua cũng ghi nhận bước chuyển quan trọng trong thực thi chính sách dữ liệu. Thực hiện Kế hoạch số 02-KH/BCĐTW và Chỉ thị số 24/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ, từ ngày 1/10/2025, các Trung tâm Phục vụ hành chính công trên toàn quốc không thu hồ sơ giấy đối với 25 dịch vụ công trực tuyến thiết yếu, thay thế bằng khai thác dữ liệu từ các cơ sở dữ liệu quốc gia và chuyên ngành. Theo Bộ Khoa học và Công nghệ, quá trình triển khai đang được theo dõi, đôn đốc thường xuyên, từng bước tháo gỡ các điểm nghẽn về hạ tầng, kết nối và kỹ năng số ở cơ sở, đưa dữ liệu phục vụ trực tiếp người dân và doanh nghiệp.

Điểm nghẽn và lời giải cho kinh tế dữ liệu

Nếu kiến trúc dữ liệu quốc gia được hình thành từ Trung ương với thể chế, hạ tầng và cơ chế điều phối thống nhất, thì thước đo quan trọng nhất của kinh tế dữ liệu lại nằm ở khả năng đi vào thực tiễn địa phương. Một năm qua cho thấy kinh tế dữ liệu đã bắt đầu rời khỏi phạm vi chính sách và hội thảo để đi vào các bài toán điều hành, dịch vụ công và sản xuất, kinh doanh, mặc dù mức độ triển khai còn chưa đồng đều.

Tại Hưng Yên, dữ liệu được xác định là tài nguyên phát triển mới, gắn trực tiếp với mục tiêu đổi mới mô hình tăng trưởng. Việc ban hành Chiến lược phát triển dữ liệu số giai đoạn 2025-2030, tầm nhìn 2035 cùng việc đưa trợ lý ảo vào quản lý, điều hành cho thấy dữ liệu và trí tuệ nhân tạo (AI) đã được sử dụng theo hướng ra quyết định dựa trên bằng chứng.

Theo Phó Giám đốc Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Hưng Yên Nguyễn Xuân Hải, trước đây nguồn vốn, đất đai và tài nguyên là yếu tố quyết định phát triển thì nay tri thức, dữ liệu và đổi mới sáng tạo mới là nền tảng của tương lai. Ở Huế, dữ liệu được tiếp cận theo hướng gắn bảo tồn với phát triển, trong khi Bắc Ninh hướng tới mô hình “thành phố dữ liệu”, còn Đà Nẵng tiếp tục triển khai bài bản Chiến lược dữ liệu quốc gia, vận hành Trung tâm Giám sát, điều hành thông minh thành phố Đà Nẵng (Trung tâm IOC) và Trợ lý số DaNang AI, coi dữ liệu là hạ tầng mềm của đô thị hiện đại.

Tuy vậy, thực tiễn cũng cho thấy ngay cả những địa phương đi đầu vẫn đối mặt với nhiều vướng mắc căn cơ, khẳng định kinh tế dữ liệu không chỉ là câu chuyện công nghệ, mà là bài toán tổng thể về thể chế, dữ liệu và con người. Theo báo cáo của Trung tâm Dữ liệu quốc gia, trong số 105 cơ sở dữ liệu được giao triển khai, mới chỉ có 31 cơ sở vận hành ổn định, 36 cơ sở đang xây dựng, còn 38 cơ sở chậm tiến độ hoặc chưa triển khai. Khoảng cách này phản ánh rõ thực tế, nếu thiếu chuẩn hóa, thiếu kết nối liên thông và thiếu cơ chế điều phối thống nhất, các mô hình dữ liệu ở địa phương khó tạo ra giá trị gia tăng và sức lan tỏa cho toàn nền kinh tế.

Nhiều đánh giá quốc tế cho rằng, với chiến lược phù hợp, kinh tế dữ liệu Việt Nam có thể đóng góp từ 5-8% GDP vào năm 2030 và tạo ra 200.000-300.000 việc làm mới. Tuy nhiên, tiềm năng đó hiện tại vẫn bị “kìm giữ” bởi các điểm nghẽn cấu trúc, nổi bật là cơ chế chia sẻ dữ liệu còn mang tính hình thức; dữ liệu phân tán, trùng lặp; thiếu kiến trúc dữ liệu tổng thể và chuẩn chất lượng thống nhất. Dù hành lang pháp lý về dữ liệu ngày càng được hoàn thiện, mở đường cho thị trường dữ liệu và dữ liệu mở, song khâu thực thi vẫn là điểm yếu, với tư duy “dữ liệu sở hữu riêng” còn phổ biến và hệ thống quản trị, đánh giá chất lượng dữ liệu chưa được thiết lập đồng bộ.

Về hạ tầng, Việt Nam đã có bước tiến với Trung tâm Dữ liệu quốc gia và gần 40 trung tâm dữ liệu đang hoạt động, tổng công suất khoảng 145 MW; tỷ lệ doanh nghiệp sử dụng điện toán đám mây đạt khoảng 56%. Tuy nhiên, quy mô và năng lực hạ tầng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu phát triển chiều sâu, thể hiện ở việc kinh tế dữ liệu mới chỉ đóng góp khoảng từ 1,4-1,5% GDP. Cùng với đó, nguồn nhân lực dữ liệu tiếp tục là “nút thắt mềm” khi Việt Nam mới có khoảng từ 18.000-20.000 chuyên gia dữ liệu và AI, trong khi thị trường ước thiếu từ 70.000-90.000 nhân lực chất lượng cao. Ở nhiều địa phương, một số cán bộ vẫn lúng túng trong chuyển từ tư duy quản lý hành chính sang ra quyết định dựa trên dữ liệu.

Từ góc nhìn cơ hội, ông Lương Công Danh, thành viên Ban Điều hành Mạng lưới Chuyên gia dữ liệu toàn cầu (VDEN), cho rằng Việt Nam có thể đi nhanh nhưng phải đi đúng, dựa trên bốn trụ cột của Nghị quyết số 57 là thể chế, nhân lực, hạ tầng và dữ liệu. Theo ông, Nhà nước cần mở đường và đặt bài toán, khu vực tư nhân là động lực triển khai, còn đội ngũ khởi nghiệp (startup) và đội ngũ nhân tài công nghệ là chất xúc tác; đồng thời thu hút người Việt trên toàn cầu am hiểu dữ liệu và AI tham gia đồng hành cùng địa phương để rút ngắn khoảng cách công nghệ.

Ở tầm chiến lược, Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Cương nhấn mạnh, phát triển kinh tế dữ liệu là nhiệm vụ trọng tâm gắn với năng lực cạnh tranh và chủ quyền số. Theo ông, các ưu tiên cần triển khai theo thứ tự rõ ràng: Hoàn thiện thể chế và cơ chế giao dịch, định giá dữ liệu; phát triển hạ tầng dữ liệu quốc gia; hình thành thị trường dữ liệu có kiểm soát và đầu tư mạnh cho nguồn nhân lực. Khi các trụ cột này được kết nối đồng bộ, kinh tế dữ liệu mới có thể vượt qua giai đoạn khởi động để trở thành động lực tăng trưởng mới một cách thực chất.

Có thể bạn quan tâm