"Không có sự trở về nào là quá muộn"!

Những năm qua, trong khi hàng triệu người Việt đang sinh sống ở nước ngoài luôn hướng về quê hương, cố gắng đóng góp sức mình vì sự phát triển đất nước, thì lại có một số người vì lý do nào đó vẫn giữ mối hận thù, hoặc còn có định kiến. Không có sự trở về nào là quá muộn là tâm sự của tác giả Hồ Ngọc Thắng - một người Việt hiện sinh sống ở CHLB Đức, Báo Nhân Dân xin giới thiệu cùng bạn đọc.
 

 Gần 40 năm trước cuộc chiến tàn khốc trên đất nước Việt Nam đã kết thúc, và nguyện ước của mọi con người trên mảnh đất hình chữ S đã trở thành hiện thực: nước nhà thống nhất để bước vào thời kỳ xây dựng và phát triển. Mọi người Việt Nam dù sống trong nước hay nước ngoài, cùng chung sức xây dựng Tổ quốc ngày càng giàu mạnh. Tôi biết phần lớn số người Việt ở nước ngoài đều hiểu như vậy, song vẫn có số ít mang hận thù hay định kiến trong lòng. Bài viết này của tôi - một người Việt sinh sống tại CHLB Ðức đã hơn 30 năm, có mục đích để tâm sự với họ.

Dù còn nhiều lo toan, đôi khi có cả buồn phiền, nhưng chúng ta nên vui khi mỗi ngày mới lại đến với các đổi thay tích cực ở quê nhà, và với lương tri của con cháu Hùng Vương, chúng ta cần phải hòa hợp. Tất nhiên, hòa hợp dân tộc phải tiến hành từ hai phía: Nhà nước và người dân. Về phía Nhà nước, các chính sách, việc làm đối với cộng đồng người Việt ở nước ngoài trong những năm gần đây (như quy định miễn thị thực nhập cảnh cho người mang hộ chiếu nước ngoài, quy định khá thông thoáng về hồi hương, thôi quốc tịch trong trường hợp chính đáng và mua nhà đất,...) là bằng chứng cụ thể trong việc thực thi đường lối nhất quán "người Việt ở nước ngoài là một bộ phận không thể tách rời của dân tộc Việt Nam". Từ khối đoàn kết toàn dân do Ðảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, dân tộc ta đã có sức mạnh phi thường để chiến thắng trong hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, rồi tiếp tục thu được nhiều thành tựu to lớn trong xây dựng, phát triển đất nước. Từ hôm nay đến tương lai cũng vậy, chúng ta cần đoàn kết, mà muốn đoàn kết thì cần hòa hợp, chỉ có hòa hợp mới có thể chung sức, chung lòng vì đất nước.

 Ðối với tôi, suy nghĩ về hòa hợp dân tộc có lẽ nhen nhóm từ ngày bom đạn còn rền vang trên đất trời Quảng Trị. Ðó là sáng ngày 31-1-1973 ở phía nam cảng Cửa Việt. Hôm ấy tôi được giao nhiệm vụ duy trì liên lạc từ một điểm chốt bao vây lực lượng "quân lực VNCH" với hầm chỉ huy Tiểu đoàn 1 (E101, F325). Chuyển lệnh khai hỏa xong, tôi ôm súng ngồi bên máy liên lạc trong hầm chữ A. Qua cửa hầm, tôi quan sát được bãi biển, khu vực cột cờ. Một tên lửa chống tăng AT.3 từ trên chốt phóng đi, một xe tăng bốc cháy. Hai quả tiếp theo lại không trúng mục tiêu. Ngay trước mắt tôi, ba xe tăng M.48 chạy rất nhanh về phía Thanh Hội. Nhiều xe tăng từ phía cảng cũng lao thục mạng về hướng Hải Lăng. Lúc này, pháo tầm xa từ phía tây cũng rót tới tấp sát mép nước. Nhiều người lính mặc quần áo rằn ri chạy theo sau xe tăng, một số người ngã xuống. Lúc đó dù khói bụi mù mịt, tôi vẫn phát hiện một nhóm người mặc quần áo rằn ri, lom khom chạy về phía chốt. Trong giây lát tôi nhận ra họ không đội mũ sắt, vừa chạy vừa vứt vũ khí, trang bị. Ðúng lúc đó, AK.47 của đồng đội ở sát hầm của tôi nhả đạn, mấy người liền nằm rạp xuống đất. Tôi vội chạy sang hầm bên phải và hô rất to: "Không bắn nữa, lệnh của tiểu đoàn trưởng!", rồi lao ra phía trước vẫy tay. Mấy người mặc áo rằn ri hiểu ngay, họ chạy như bay tới chỗ tôi. Sau khi nhảy xuống giao thông hào, họ theo tôi chui vào hầm để máy thông tin. Tôi vào sau cùng, ngồi tựa lưng vào tường phía đông, bên phải là cửa hầm. Suốt thời gian đó, tôi ôm khẩu AK.47, nòng súng dựa vào vai bên phải. Ở vị trí đó tôi vừa có thể quan sát khu vực sát mép nước biển và cột cờ, vừa nhìn các anh lính ngồi trước mặt. Họ ngồi sát vào nhau. Ðể không khí bớt căng thẳng và để các anh không lo âu, tôi hỏi có mệt không, tất cả đồng loạt trả lời: "Có". Ngồi cạnh tôi là một anh khoảng 30 tuổi, nói giọng mệt mỏi: "Ba ngày ba đêm không ăn, không uống, không ngủ". Lúc đó đạn đại bác vẫn nổ kinh hoàng. Về sau tôi mới biết để hỗ trợ cuộc rút lui, các trận địa pháo binh ở Hải Lăng đã nã tới tấp vào chốt. Nghe tiếng rít của đạn đại bác sắp chạm đất là mọi người trong hầm co dúm. Khi đạn nổ, căn hầm rung chuyển. Mỗi lần như thế, râu ria lởm chởm của anh ngồi bên lại chọc vào da mặt còn non nớt của tôi lúc đó chưa tròn 19 tuổi. Rồi hơi thở mùi thuốc lá nữa. Mà tôi thì cũng không thơm tho gì hơn anh, từ 24-1-1973 - ngày những người lính này tiến công, giữa cát trắng mênh mông, chúng tôi bị thiếu nước uống trầm trọng, đâu có nước để vệ sinh cá nhân. 30 phút sau, chiến trường trở nên yên tĩnh. Tay cầm súng, tôi nhảy ra khỏi hầm, ngó chung quanh, rồi quay vào gọi: "Các anh ra đi!". Và tôi bị bất ngờ khi thấy anh lính trước đó đã mấy lần "chạm má", lại quỳ trước tôi. Anh giơ hai cánh tay lên cao như người vái lạy, nhưng hai bàn tay lại tạo thành hình tròn. Anh nói: "Con tặng ông giải phóng cái này" và xòe hai bàn tay. Tôi thấy một cái bật lửa Zippo. Tôi biết, anh muốn tặng tôi vật dụng quý giá nhất mà anh còn mang bên người. Vì hoàn cảnh lúc đó, tôi cố gắng ghìm nén cảm xúc để nói với giọng khô khan: "Tôi không lấy đâu. Anh cần nó ở trại tù binh". Tôi kéo anh đứng dậy. Khi mọi người ra khỏi hầm, khoác khẩu súng lên vai, tay xách điện thoại dã chiến, tôi bảo: "Các anh theo tôi đi gặp chỉ huy". Họ xếp hàng dọc theo tôi đi xuống chân đồi. Kể lại câu chuyện, tôi không biết những người lính mặc quần áo rằn ri ngày ấy nay ở đâu, nếu đọc các dòng này, các anh hãy liên lạc với tôi và hẹn một ngày hội ngộ, để cùng nhớ về một kỷ niệm chiến tranh.

 Về sau tôi nhận ra đó là lần duy nhất khi phục vụ trong QÐND Việt Nam, tôi đã nói dối. Tôi đã nói là lệnh của tiểu đoàn trưởng để đồng đội không bắn vào những người lính có ý định đầu hàng. Cũng từ đó đối với tôi, những người lính ở bên kia chiến tuyến không còn là "trâu điên", "cọp biển",... mà họ là những con người bình thường, biết lo sợ và biết hy vọng cả trong tình huống tưởng như tuyệt vọng. Tình người đã vượt qua nhiều rào cản, mà rào cản lớn nhất chính là hận thù và định kiến. Về với quê hương trong những năm qua, tôi được chứng kiến nhiều hình ảnh sinh động về hòa hợp dân tộc, có sự kiện không ở đâu xa mà ngay trong gia đình tôi. Khi đất nước còn chia cắt mẹ tôi rất buồn, vì trước 1954 em gái bà là Lê Thị Huệ, vào thăm chị gái Lê Thị Tuyết lấy chồng ở Nha Trang; khi Hiệp định Geneve có hiệu lực, dì mắc kẹt ở miền nam. Sau ngày giải phóng, mẹ tôi vô cùng hạnh phúc vì gặp lại em gái út sau hơn 30 năm bặt tin. Rồi mẹ tôi lại buồn khi biết vợ chồng dì đã định cư ở Hoa Kỳ theo diện HO. Trước năm 1975, chồng của dì là cảnh sát, tôi không biết tại sao chú lại quan niệm "không thể sống chung với cộng sản, phải ra đi bằng mọi giá"? Về sau người con gái đầu của dì chú là Nguyễn Thị Thu Trang ở lại Nha Trang cùng chồng thành lập Công ty điện tử TQT. Công ty làm ăn phát đạt, tích cực hoạt động từ thiện, được Chủ tịch nước tới thăm. Sau nhiều lần về nước, chứng kiến sự thay đổi ở quê nhà, mấy năm trước dì chú tôi đã hồi hương về sống tại Nha Trang. Năm 2012 về nước, tôi ghé thăm dì chú trong một ngôi nhà khang trang gần đường Lam Sơn. Dì chú bộc bạch: "Không đâu bằng quê cha đất tổ". Ðể nhận thấy điều đó, dì chú của tôi đã mất bao nhiêu thời gian, công sức và nước mắt. Nói về chuyện xây dựng đất nước sau ngày giải phóng, dì chú tôi nói rất thật lòng: "Nha Trang bây giờ không những đẹp hơn hồi xưa mà hiện đại hơn, hấp dẫn hơn nhiều thành phố ở Hoa Kỳ". Như vậy là hạnh phúc vì hòa hợp dân tộc đã không chỉ đến với mẹ tôi, mà đến với bao nhiêu gia đình Việt Nam khác.

 Ở nước ngoài tôi biết, phần lớn những người còn mang nỗi hận thù là do bị các phần tử, tổ chức cực đoan kích động. Nhưng có người không bị kích động, mà vì hoàn cảnh cá nhân bắt nguồn từ cuộc chiến cho nên đã ra đi, nay vẫn mang nặng định kiến. Cách đây không lâu, tôi đọc trên internet tâm sự của một phụ nữ Việt sống ở Hoa Kỳ: "Tôi không muốn trở lại nơi đó vì ở đó ba tôi, một sĩ quan quân lực Việt Nam cộng hòa đã bị bắn chết". Tôi hiểu và tôi chia sẻ với nỗi đau của chị, vì không nỗi đau nào lớn hơn nỗi đau mất một người mình yêu thương. Tuy nhiên, như các nhà tâm lý học ở Ðức vẫn tư vấn khi cuộc đời gặp cảnh đau đớn hay bế tắc trong tâm hồn thì nên làm hai điều: một là phải chấp nhận những gì đã xảy ra mà mình không thể làm lại được; hai là phải suy nghĩ tích cực, hành động tích cực để mất mát không thể lớn hơn. Mất cha là một tổn thất rất lớn, nhưng tổn thất sẽ còn lớn hơn nếu mất thêm cả quê hương. Là người đã sống qua những năm tháng chiến tranh, đã đi qua một chặng đường dài của cuộc đời và cũng không tránh khỏi khủng hoảng tuy không nghiêm trọng như của chị phụ nữ nói trên, lại từng được tận mắt chứng kiến nhiều cảnh ngộ đau thương của người Việt Nam ở cả hai bên chiến tuyến,... tôi khuyên chị nên tìm hiểu xem ai đã đến đất nước mình và gây nên chiến tranh tàn khốc, để từ đó chị tự giải thoát cho mình.

 Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, nhân dân nhiều nước châu Âu tưởng chừng không bao giờ có thể xóa được nỗi hận thù với nước Ðức. Nhưng thời gian chứng minh điều tưởng chừng không thể đã trở thành hiện thực. Ngày nay, nước Ðức thật sự là người bạn tốt của họ. Tôi biết, nếu một người mang trong lòng nỗi hận thù, định kiến thì sẽ mang trong tâm hồn một gánh nặng rất lớn. Áp lực đó sẽ chi phối toàn bộ suy nghĩ, hành động; nhưng họ sẽ thanh thản trong tâm hồn nếu trút được hận thù và định kiến. Có người chưa về thăm quê vì nhiều chuyện buồn phiền khác ở quê nhà. Không ai phủ nhận thực tế là đất nước còn khó khăn, còn có một số bất cập. Ðảng và Nhà nước ta cùng với toàn dân đang cố gắng khắc phục. Từ ngày 2-9-1945 đến nay, dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản, dân tộc Việt Nam đã vượt qua rất nhiều tình huống "nước sôi, lửa bỏng" để giành độc lập, xây dựng cuộc sống mới; nên cần phải tin tưởng vào mục tiêu dân tộc chúng ta đang hướng tới. Và theo tôi, việc khắc phục đó cần có sự tham gia, đóng góp của mọi người Việt Nam. Với đồng bào đang sống ở nước ngoài như tôi, không có sự trở về nào là quá muộn, điều đầu tiên quan trọng nhất để trở về với quê hương là đi theo tiếng gọi của trái tim. Ðó là điều đúng đắn đưa chúng ta về với quê mẹ, để mỗi chúng ta thanh thản hơn trong tâm hồn. Về nước đã nhiều lần nên tôi đã thấy, đã biết, quê hương Việt Nam thân yêu vẫn luôn chờ đón mọi người con từ bốn phương trời, dù họ ra đi lúc nào và trong hoàn cảnh nào.

Có thể bạn quan tâm