Hoài Thượng - quê thầy, đất thợ

Trải dài ven sông Ðuống, Hoài Thượng vốn nổi danh là miền đất văn hiến, trai tài, gái đảm, nhưng cách nay chưa lâu, nơi đây còn là vùng quê nghèo khó của huyện Thuận Thành, Bắc Ninh. Mấy năm nay cuộc sống của người dân Hoài Thượng đã có nhiều đổi thay...

Từ thế kỷ 19, Hoài Thượng đã là vùng quê nổi tiếng về truyền thống khoa bảng, hiếu học, phụ nữ thì giỏi nghề canh cửi, dệt vải. Xuất thân từ nơi này, nhiều người đã đỗ đạt thành danh. Trong bốn vị đỗ đại khoa được khắc tên trên bia đá có Ðỗ Trọng Vỹ (1829-1899) được tôn vinh là Danh nhân, ngôi sao sáng của văn hiến Kinh Bắc. Ông là nhà giáo có nhiều học trò thành đạt, đặc biệt là ông có công tôn tạo Văn Miếu - Bắc Ninh, nơi có 12 tấm bia đá ghi danh gần 700 người đỗ đạt. Ông cũng dày công soạn bộ sách Bắc Ninh địa dư chí ghi chép, đánh giá về thuần phong, mỹ tục của các làng quê và các vị đại khoa tỉnh Bắc Ninh.

Các cụ trong xã kể, những năm cuối thế kỷ trước, khi chưa đắp được con đê quai, hằng năm có đến vài tháng, ruộng vườn của làng xã ngâm trong nước. Bởi thế, là vùng quê lúa nhưng Hoài Thượng lại thường xuyên phải trợ cấp lương thực. Thuở ấy đất chật, người đông, mùa màng bấp bênh, người Hoài Thượng phải đi muôn phương kiếm kế mưu sinh. Trong câu chuyện của các cụ còn mang nỗi ám ảnh về một thời nhọc nhằn của cư dân vùng chuyên canh cây đay. Cả ngày đi làm đay bàn tay thâm đen, tím tái. Bữa ăn ngày giáp hạt cũng toàn khoai với cà muối, cũng tím tái, thâm đen... Nay thì mọi sự đã khác, Hoài Thượng đã có hệ thống đường bê-tông chạy dài ở cả chín thôn của xã, ô-tô chạy thông đến từng xóm ngõ. Cả xã có hơn một trăm ô-tô các loại, chưa kể đoàn xe tải từ các tỉnh về "ăn hàng" dệt may đỗ dọc đường vào thôn Ðại Mão. Rồi nhà cao tầng san sát khắp xã, lại có nhiều ngôi nhà kiểu biệt thự bên những khu ao, thùng đấu lớn, vốn là dấu ấn của những cơn lũ xoáy từ sông Ðuống ngày nào. Rồi các gian hàng dịch vụ, từ cửa hàng điện tử, may thời trang, đến dịch vụ chăm sóc sức khỏe, làm đẹp cho phụ nữ...

Cụ Trịnh Ðức Tân, Chủ tịch Hội Người cao tuổi  xã, chiêm nghiệm: "Ở làng quê này có ba nơi luôn được các thế hệ của làng, xã lui tới, đề cao, tôn trọng nhất là trụ sở Ðảng, chính quyền xã, trường học và nơi thờ tự". Ðất nghèo nuôi chí làm thầy, tính từ đốc học Bắc Ninh Ðỗ Trọng Vỹ, đến Lê Nho Nùng - nguyên Giám đốc Sở Giáo dục tỉnh, Hội giáo chức của làng, xã lên đến hơn ba trăm người. Chưa kể nhiều nhà giáo quê tại đây đã "rẽ ngang" công tác ở các ngành khác. Chủ tịch UBND huyện Thuận Thành Nguyễn Văn Thanh quê ở Hoài Thượng cũng từng lập nghiệp bằng nghề dạy học. Anh kể, xưa kia, khi nước lụt ngập trắng đường làng, hay đêm về ngõ xóm leo lét ánh đèn, vẫn vang vọng tiếng trẻ học bài. Nhiều năm kiên trì đầu tư cho giáo dục cho nên năm nào Hoài Thượng cũng có tỷ lệ học sinh vào THPT cao nhất huyện. Xã có chưa tới hai nghìn hộ dân nhưng năm năm trở lại đây bình quân mỗi năm có từ 80 đến 90 em thi đỗ vào các trường cao đẳng, đại học. Trong khi khu trụ sở Ðảng ủy, UBND xã còn có phần xập xệ, thì những ngôi trường các cấp của Hoài Thượng đều được xây dựng khang trang, đạt chuẩn quốc gia. Bí thư Ðảng ủy xã Nguyễn Phấn Thuật, có 28 năm làm cán bộ địa phương. Ông giữ trọn hai khóa Chủ tịch UBND cùng hai khóa Bí thư Ðảng ủy xã. Ông nhớ lại: "Chủ trương nhiều năm nay của Ðảng ủy, lãnh đạo xã là phát huy truyền thống, thu hút chất xám, nguồn vốn của bà con gần xa xây dựng quê hương. Ðiều này đã nhận được sự đồng thuận cao trong nhân dân".

Ở Hoài Thượng trong năm có nhiều sự kiện, trong đó có sự kiện thu hút bà con muôn phương đổ về, đó là Hội làng và giỗ tổ nghề. Ngày Xuân tế Tổ vào mồng 10 tháng Giêng, trên đê dòng xe nườm nượp đổ về. Ðường làng ngõ xóm, con cháu đi như trẩy hội. Hiếm có vùng quê nào xây dựng, gìn giữ, lưu truyền gia phả, bia đá, hoành phi, câu đối, nơi thờ tự nghiêm cẩn như ở đây. Cả làng, cả xã cùng chung tâm nguyện giữ gìn, phát huy truyền thống hiếu học, đạo đức và lễ nghĩa của tổ tiên trao truyền. Mỗi năm, dịp đầu xuân, tất cả 64 dòng họ đều mở lễ tại nhà thờ họ. Ðây là dịp con cháu dâu rể muôn nơi tụ về ôn lại truyền thống gia đình, dòng họ. Cũng là dịp người trong họ tôn vinh công trạng của những người hiếu thảo, thành đạt, nhắc nhau những lỗi lầm của con, cháu. Tất cả các dòng họ ở xã đều phát triển Quỹ khuyến học, khuyến tài.

Nhiều thập kỷ nay, trong lễ tế Tổ ở Hoài Thượng có thêm một sinh hoạt văn hóa độc đáo, nhiều ý nghĩa, là những người con của Hoài Thượng đã đỗ đạt thành danh ở nơi khác trở về hiến kế cho dòng họ, cấp ủy, chính quyền xây dựng quê hương. Mười năm qua, Ðảng bộ xã kiên trì với mục tiêu chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, theo hướng mở rộng sản xuất tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ. "Ðưa vốn về làng, đưa hàng xuất ngoại" là câu cửa miệng, là ý chí phấn đấu bền bỉ. Xã tiến hành quy hoạch đất đai để mở xưởng, dành vị trí đẹp, đất "nục nạc" của làng xã để các hộ có năng lực phát triển sản xuất. Biết nhiều hộ dân khát vốn, các đoàn thể ở xã tín chấp để các hộ vay vốn phát triển sản xuất. Khi cấp ủy có chủ trương mở rộng quy mô sản xuất, Hoài Thượng có nhiều giải pháp sáng tạo nhằm đào tạo nghề cho lao động nông thôn. Phó Chủ tịch UBND xã Trần Ðăng Chúc kể rằng, xã đã phối hợp các cấp, kể cả Trung ương, đã mở được hơn trăm lớp dạy nghề. Các lớp đào tạo nghề đều theo sát với nhu cầu thị trường, như may công nghiệp, dệt, chạm khắc, sơn mài, thủ công mỹ nghệ. Xã đặc biệt coi trọng việc vận động nhân dân dạy truyền nghề, tạo việc làm trong dòng họ, bà con làng xóm. Ðể có một công nhân đứng máy may công nghiệp may hàng xuất khẩu phải đào tạo từ ba đến bốn tháng. Công phu là vậy, nhưng Hoài Thượng đã có hơn một nghìn lao động may làm việc tại các doanh nghiệp may trong xã được đào tạo theo phương thức này.

Vùng đất ven sông Ðuống còn có làng Bình Cầu với vài chục hộ làm nghề, mở tổ hợp, mở công ty sản xuất đồ mộc dân dụng. Từ xưa làng có nghề mộc chạm khắc gỗ mỹ nghệ nổi tiếng trong vùng. Hoành phi, câu đối  nơi thờ tự không chỉ riêng của đất Thuận Thành mà cả vùng Kinh Bắc hầu hết đều từ bàn tay thợ tài hoa nơi đây làm nên. Thợ nghề mộc mỹ nghệ ở Hoài Thượng, ngày trước nếu sáng ý cũng phải được truyền nghề từ ba đến năm năm. Thêm nữa, thợ cả làm hoành phi câu đối, chắp tải, cửa võng phần lớn có gốc gác từ các gia đình nhà nho, có chữ nghĩa hơn người. Nghề này đòi hỏi công phu tinh xảo là vậy, nhưng thu nhập một thời rất thấp cho nên dần mai một, chỉ còn dăm hộ giữ nghề. Ngày nay xã và huyện đã khôi phục làng nghề chạm khắc gỗ truyền thống Bình Cầu. Từ đó đã có vài chục hộ trở lại với nghề cũ. Tiếng lành đồn xa, khách nhiều nơi lại về đặt hàng. Nhờ làm nghề mộc mỹ nghệ mà ở Bình Cầu nhiều gia đình xây được biệt thự, mua được ô-tô du lịch, như gia đình anh Huy, anh Tuấn là không còn hiếm. Cơ bản hơn, vốn là xã thuần nông, nay Hoài Thượng có đội ngũ lao động đã chuyên môn hóa cao. Trong vòng bảy năm số lao động từ khu vực nông nghiệp sang dịch vụ thương mại đã tăng từ 8% lên 47%. Chưa kể hàng trăm lao động đã được đào tạo nghề chuyển đi lao động hợp tác ở nước ngoài. Nếu như mười năm trước, ở xã sản phẩm từ nông nghiệp là chủ yếu thì nay chỉ còn dưới 30%, thay vào đó là nguồn thu từ dịch vụ, thương mại. Năm 2010, nông nghiệp toàn xã thu gần 30 tỷ, thì doanh thu từ các ngành tiểu, thủ công nghiệp và dịch vụ lên tới cả trăm tỷ đồng. Toàn xã hiện có năm công ty, 173 xưởng sản xuất, giải quyết việc làm cho vài nghìn lao động. Chưa kể 162 hộ kinh doanh hàng thủ công nghiệp và 172 hộ làm dịch vụ tổng hợp thu hút hơn hai nghìn lao động, quá nửa là lao động tại xã. Ở Hoài Thượng có một đường phố là nơi đặt văn phòng của các công ty, doanh nghiệp, hợp tác xã dịch vụ. Chưa tính mạng lưới văn phòng giao dịch của hơn 300 cơ sở sản xuất, dịch vụ đặt tại các gia đình, và ở khắp thôn làng của Hoài Thượng.

Tại một văn phòng như vậy, chúng tôi gặp Lê Ðình Nam là Giám đốc công ty dệt may Nam Tiến, anh là con liệt sĩ. Tên công ty mang ước nguyện của anh khi tìm được hài cốt của người cha kính yêu hy sinh trên chiến trường miền nam. Công ty mở rộng quy mô, địa bàn sản xuất sang tận tỉnh Thái Bình. Bà nội anh là Bà mẹ Việt Nam Anh hùng Lê Thị Tải, năm nay 97 tuổi. Khi đang nói chuyện với chúng tôi, điện thoại di động của cụ đổ chuông. Cụ bấm máy, nói chuyện với chắt ngoại đang học đại học ở Hà Nội. Giọng cụ hồ hởi:

- Tuần này cháu thi thì thứ bảy, chủ nhật không phải về với cụ nữa. Mà nhớ hãm nước lá cụ gửi mà uống nhé!

Cụ chậm rãi kể, cụ có mười chắt nội ngoại, tất cả đều đã và đang học đại học. Trong ánh mắt của Bà mẹ Việt Nam Anh hùng ánh lên niềm tự hào về gia đình, dòng họ, quê hương.

Có thể bạn quan tâm