Thực tế cho thấy, thông qua các HTX, nông dân được cung ứng giống, vật tư, khoa học kỹ thuật,… đồng thời hỗ trợ tìm kiếm thị trường, xúc tiến thương mại. Từ đó, người dân không chỉ có thêm thu nhập, nâng cao chất lượng cuộc sống, mà còn tạo động lực xây dựng nông thôn mới.
NHỮNG MÔ HÌNH HIỆU QUẢ
Nhiều năm qua, tỉnh Đồng Tháp trở thành địa chỉ tin cậy của người tiêu dùng cả trong và ngoài nước nhờ cung ứng một lượng lớn trái cây như xoài, sầu riêng, chanh không hạt,... ra thị trường. Hiện nay, toàn tỉnh có 38 HTX cây ăn quả trên tổng số 208 HTX nông nghiệp.Tại vườn chanh không hạt của anh Phạm Văn Niềm rộng hơn 8.000 m2, những trái chanh căng bóng được trồng theo hướng hữu cơ đạt chứng nhận “Chanh Cao Lãnh”. Điều đáng ghi nhận là quyết tâm đưa chanh không hạt trở thành cây xóa đói, giảm nghèo cho người dân địa phương của HTX Dịch vụ nông nghiệp Mỹ Long, huyện Cao Lãnh (Đồng Tháp) và anh Niềm.
Anh Niềm cho biết: Lúc đầu trồng chanh không hạt, tôi và các xã viên trong HTX chưa hiểu nhiều về giống cây mới này. Trong quá trình canhtác, thay vì bón phân hữu cơ (theo đặc tính của cây), các xã viên bón phân vô cơ khiến vỏ chanh xỉn mầu, không hấp dẫn. Đến khi đưa đi tiêu thụ, người dân các nơi không quen sử dụng chanh không hạt, nhiều gia đình phải đóng gói mang lên Thành phố Hồ Chí Minh gửi bán.
Chọn hướng sản xuất chuyên canh, thực hiện liên kết chuỗi trong sản xuất cây ăn quả là lựa chọn đúng đắn của các HTX nông nghiệp tỉnh Bến Tre.
Nhờ liên kết sản xuất, thông qua HTX Dịch vụ nông nghiệp Mỹ Long, sản phẩm chanh không hạt của anh Niềm và các xã viên trong HTX đã được thu mua với giá bằng hoặc cao hơn giá trị trường từ 3.000-4.000 đồng/kg. Hiện chanh không hạt của HTX đang chuyển hướng sản xuất theo quy trình Global GAP, để xuất khẩu sang châu Âu. Đây là điểm khởi đầu mới của hơn 300 xã viên HTX trong hành trình đưa trái chanh không hạt chinh phục các thị trường khó tính.
Chọn hướng sản xuất chuyên canh, thực hiện liên kết chuỗi trong sản xuất cây ăn quả là lựa chọn đúng đắn của các HTX nông nghiệp tỉnh Bến Tre. Trong tổng số 145 HTX nông nghiệp và một Liên hiệp HTX nông nghiệp toàn tỉnh, đã có 75 HTX tham gia xây dựng vùng sản xuất gắn với chuỗi giá trị các sản phẩm nông nghiệp chủ lực.
Hiện Bến Tre đã hình thành 17 vùng trồng nội địa với diện tích hơn 800 ha; trong đó, có 43 vùng trồng xuất khẩu được cấp 93 mã số đang hoạt động với diện tích hơn 700 ha. Thời điểm hiện tại, tỉnh đã có sáu doanh nghiệp được cấp mã số cơ sở đóng gói xuất khẩu; tỷ lệ giá trị sản phẩm nông, lâm, thủy sản chủ lực được sản xuất theo các quy trình sản xuất tốt (GAP) và tương đương đạt 25,6% (24.640 ha), diện tích được thực hiện liên kết đạt 20,6%.
Tại HTX nông nghiệp Phú Phụng, xã Phú Phụng, huyện Chợ Lách (Bến Tre), hơn chục nhân công đang khẩn trương đóng gói sản phẩm chôm chôm để xuất khẩu. Năm nay, chôm chôm Thái vụ nghịch có giá từ 70.000-80.000 đồng/ kg. Ông Võ Tấn Truyền, thành viên HTX nông nghiệp Phú Phụng, canh tác 8.000 m 2 chôm chôm cho biết: “Trước đây người dân trồng chôm chôm bán cho thương lái với giá bấp bênh, tiêu thụ rất khó khăn, nhất là vào vụ thuận.
Từ ngày vào HTX, được tập huấn kỹ thuật trồng theo tiêu chuẩn VietGAP, được cấp mã số vùng trồng phục vụ xuất khẩu và được HTX bao tiêu đầu ra với giá ổn định, cao hơn thị trường từ 2.000-5.000 đồng/kg, cho nên người dân rất phấn khởi. Hầu hết các xã viên đều áp dụng kỹ thuật xử lý cho ra trái vụ nghịch, cho nên lợi nhuận cao gấp 2-3 lần so với sản xuất chôm chôm vụ thuận”.
Phó Trưởng phòng Nông nghiệp và Môi trường huyện Chợ Lách Trần Hữu Nghị cho biết: Huyện có 14 HTX, trong đó có hai HTX cây ăn trái hoạt động rất hiệu quả. Điển hình là, mô hình HTX nông nghiệp Phú Phụng sản xuất theo chuỗi liên kết chặt chẽ mang lại hiệu quả rất cao cho các thành viên. Đây là HTX điển hình của địa phương với sản phẩm chôm chôm đạt chuẩn OCOP hạng 4 sao và đang xây dựng sản phẩm sầu riêng đạt chuẩn OCOP để phục vụ thị trường trong nước và xuất khẩu.
![]() |
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG
Với tiềm năng, giá trị của cây ăn quả còn rất lớn, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đã phê duyệt Đề án Phát triển cây ăn quả chủ lực đến năm 2025, tầm nhìn 2030. Đề án phấn đấu đến năm 2030, cả nước đạt diện tích cây ăn quả 1,3 triệu héc-ta, sản lượng hơn 16 triệu tấn; kim ngạch xuất khẩu đạt khoảng 6,5 tỷ USD. Vai trò của các HTX được xác định là “chìa khóa” mở ra cánh cửa liên kết, nhằm bảo đảm đầu vào và đầu ra cho nông sản của người dân địa phương, tránh tình trạng được mùa-mất giá.
Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Bến Tre Huỳnh Quang Đức cho biết, ngành nông nghiệp đã và đang tập trung hỗ trợ các HTX ứng dụng công nghệ cao, sản xuất theo quy trình thực hành nông nghiệp tốt. Nội dung hỗ trợ gồm: Hỗ trợ, đào tạo phát triển nguồn nhân lực cho HTX (nhân lực quản lý và chuyên môn) đủ năng lực, đáp ứng yêu cầu triển khai công nghệ cao vào sản xuất.
Ngành nông nghiệp đã và đang tập trung hỗ trợ các HTX ứng dụng công nghệ cao, sản xuất theo quy trình thực hành nông nghiệp tốt.
Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường Bến Tre Huỳnh Quang Đức
Đồng thời, hỗ trợ quảng bá, giới thiệu sản phẩm, thúc đẩy kết nối phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm; xây dựng các mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất của HTX như: VietGAP, GlobalGAP, hữu cơ...
Chủ tịch Liên minh HTX tỉnh Đồng Tháp Lê Quang Cường cho biết, cần tạo điều kiện để HTX sản xuất hàng hóa theo hướng tập trung, ứng dụng công nghệ cao, nâng cao chất lượng giá trị sản phẩm gắn với đẩy mạnh công nghiệp chế biến, kết nối tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi giá trị, quan tâm các quyền sở hữu trí tuệ đối với sản phẩm, nhãn hiệu cộng đồng, xây dựng các thương hiệu có tính cạnh tranh cao, mở rộng thị trường cho các sản phẩm chủ lực của tỉnh.
Chủ tịch Liên minh HTX Việt Nam Cao Xuân Thu Vân nhận định, để các HTX nông nghiệp cũng như HTX trồng cây ăn quả phát triển bền vững, cần có sự đầu tư thích đáng về vốn, mặt bằng để xây dựng kho xưởng, trang thiết bị phục vụ chế biến sâu.
Đồng thời, nâng cấp hạ tầng giao thông và tối ưu hóa quy trình logistics để giảm chi phí vận chuyển, tạo sức cạnh tranh lành mạnh giữa các mặt hàng trái cây cùng loại với thị trường trong nước và thị trường xuất khẩu,...
Đồng quan điểm, ở góc độ đề xuất chính sách, Tổng Thư ký Hiệp hội Rau quả Việt Nam Đặng Phúc Nguyên cho rằng, Chính phủ cần tiếp tục đàm phán “mở cửa” thêm thị trường cho các sản phẩm nông nghiệp; có cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư vào công nghệ sản xuất, chế biến theo tiêu chuẩn quốc tế. Quan trọng là trong giai đoạn hiện nay, cần chú trọng tính bền vững, tác động của biến đổi khí hậu, tăng cường các chứng nhận bền vững về trách nhiệm xã hội, môi trường của sản phẩm,...