Những con số đáng báo động
Trong khuôn khổ Hội thảo quốc tế linh trưởng châu Á lần thứ 8 do Trường đại học Lâm nghiệp phối hợp tổ chức Three Monkeys Wildlife Conservancy tổ chức, các chuyên gia đã đưa ra những con số đáng báo động về thực trạng các loài linh trưởng tại Việt Nam nói riêng, thế giới nói chung.
Theo thống kê, trên thế giới hiện có đến 522 loài linh trưởng, trong đó châu Á đóng góp đến 20% tổng số với 119 loài. Tuy nhiên, trong những năm qua, do sự gia tăng hàng loạt hoạt động không bền vững của con người, các loài linh trưởng đã mất dần không gian sinh trưởng tự nhiên.
Nhiều loài linh trưởng tại châu Á đã... mất dần ngôi nhà tự nhiên của mình. (Ảnh: Ban tổ chức) |
Nghiên cứu của Tiến sĩ Jihosuo Biswas (Trung tâm nghiên cứu linh trưởng Đông Bắc Ấn Độ) về loài vượn mày trắng miền Tây (Hoolock hoolock) cho thấy: Địa bàn của loài linh trưởng này đã bị chia cắt, thu hẹp đáng kể do hoạt động phá rừng để chuyển đổi thành đất nông nghiệp, các khu vực định cư của con người.
Trong khi đó, nhiều loài linh trưởng khác lại đối diện với hoạt động săn bắt. Ông Nabajit Das (Đại học Gauhati, Ấn Độ) dẫn chứng nghiên cứu về loài cu li chậm Bengal (Nycticebus bengalensis) và cho biết: “Theo khảo sát, 47% người dân tại vùng Đông Bắc Ấn Độ khi được hỏi thừa nhận việc săn bắt cu li diễn ra thường xuyên. 67% tin rằng, đây là một phương thuốc chữa bệnh. 16% số người được phỏng vấn cho biết họ săn bắt cu li để lấy thịt”.
Các loài linh trưởng tại Việt Nam nói riêng và châu Á nói chung đang phải đối mặt với nhiều nguy cơ từ hoạt động của con người. (Ảnh: Ban tổ chức) |
Việt Nam cũng không là ngoại lệ khi số liệu thống kê cho thấy có tới 90% tổng số loài linh trưởng nước ta đang ở mức nguy cấp và vô cùng nguy cấp.
Ông Trần Thế Liên, Vụ trưởng Khoa học, Công nghệ và Hợp tác quốc tế (Tổng cục Lâm nghiệp) cho biết: Với điều kiện về địa lý và khí hậu, Việt Nam được ghi nhận là một trong những nước có tính đa dạng sinh học cao trên thế giới với nhiều kiểu hệ sinh thái rừng, biển, đất ngập nước, trong đó có nhiều loài động vật, thực vật hoang dã quý, hiếm, đặc hữu.
Đối với khu hệ Thú linh trưởng, Việt Nam là vùng sống quan trọng của nhiều nhóm khỉ ăn lá như các loài voọc thuộc nhóm Voọc núi đá vôi, các loài Chà vá và nhóm vượn mào.
Đặc biệt, hệ sinh thái nước ta là sinh cảnh sống bản địa của 26 trong tổng số khoảng 600 loài và phân loài linh trưởng thế giới đã được Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN) công nhận. Trong đó, có 5 loài và phân loài đặc hữu gồm: voọc mũi hếch, voọc mông trắng, voọc Cát Bà, Chà vá chân xám và khỉ đuôi dài Côn Đảo.
Voọc Cát Bà. (Ảnh: Nguyễn Văn Trường) |
Mặc dù là quốc gia có số lượng các loài linh trưởng nhiều nhất Đông Nam Á nhưng Việt Nam đồng thời cũng là nước có số loài đứng trước mối đe dọa tuyệt chủng… cao nhất. GS, TS Phạm Văn Điển, Hiệu trưởng Trường đại học Lâm nghiệp thẳng thắn: “Việt Nam có 24 loài, tuy nhiên có tới 22 loài đang bị đe dọa tuyệt chủng. 10 loài trong số này thuộc diện “Cực kỳ nguy cấp” có nguy cơ tuyệt chủng. Đặc biệt, 3/10 loài là những loài đặc hữu của Việt Nam, bao gồm voọc quần đùi trắng, voọc Cát Bà và voọc mũi hếch”.
Trong khi đó, ông Trần Thế Liên còn đưa ra thực trạng đáng buồn hơn: “Theo Danh lục đỏ của IUCN đánh giá, Việt Nam có 7 loài linh trưởng rất nguy cấp, 9 loài nguy cấp, 7 loài sẽ nguy cấp. Có 5 loài linh trưởng của Việt Nam đã lọt vào danh sách 25 loài linh trưởng nguy cấp hàng đầu thế giới”.
Nỗ lực "giữ nhà" cho linh trưởng
Theo Vụ trưởng Khoa học, Công nghệ và Hợp tác quốc tế, để bảo tồn và phát triển bền vững các loài linh trưởng, trong 60 năm qua, Việt Nam đã xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng thiết lập một hệ thống rừng đặc dụng phòng hộ với diện tích hơn 6 triệu héc-ta, chiếm 37% diện tích rừng và đất lâm nghiệp toàn quốc. Hệ thống rừng này được xác định là “tài sản quốc gia”, đồng thời là “nhà” của động vật hoang dã, trong đó có các loài linh trưởng.
Đại diện Tổng cục Lâm nghiệp khẳng định: “Chính phủ Việt Nam ngày càng quan tâm công tác bảo tồn, tăng cường nguồn lực đầu tư, xây dựng và phát triển bền vững các khu rừng đặc dụng, phòng hộ nhằm bảo tồn sự đa dạng loài trong đó có các loài linh trưởng của Việt Nam và thế giới.”
Đàn voọc mũi hếch ở Khau Ca (Hà Giang). (Ảnh: Lê Khắc Quyết) |
Cụ thể, ngày 19/5/2017, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 628/QĐ-TTg phê duyệt Kế hoạch hành động khẩn cấp bảo tồn các loài linh trưởng ở Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn 2030. Kể từ đó đã có nhiều hành động tích cực trong công tác bảo tồn các loài linh trưởng, trong đó nổi bật là việc thành lập các vườn quốc gia, khu bảo tồn loài như Vườn quốc gia Cúc Phương (bảo tồn quần thể voọc quần đùi trắng); Vườn quốc gia Cát Bà (bảo tồn loài voọc đầu vàng); Vườn quốc gia Du Già - Cao nguyên đá Đồng Văn và Khu bảo tồn thiên nhiên Na Hang bảo tồn loài voọc mũi hếch; Khu bảo tồn loài Khau Ca, Nam Xuân Lạc, Trùng Khánh, Mù Căng Chải, Vân Long…
Sau 30 năm thành lập, trung tâm cứu hộ các loài linh trưởng tại Vườn quốc gia Cúc Phương đã cho sinh sản thành công 13 loài linh trưởng trong điều kiện nuôi nhốt, trong đó có 7 loài cực kỳ nguy cấp.
Ngoài ra, các trung tâm cứu hộ cũng đã ra đời nhằm phục vụ công tác bảo tồn, chuyển vị. “Có thể kể đến sự ra đời của Trung tâm cứu hộ các loài linh trưởng tại Vườn quốc gia Cúc Phương năm 1993. Đây là trung tâm cứu hộ động vật hoang dã đầu tiên ở Việt Nam, đồng thời là trung tâm có số lượng linh trưởng được cứu hộ lớn nhất Đông Nam Á. Hiện, Trung tâm đang chăm sóc gần 180 cá thể của 15 loài có nguy cơ bị đe doạ tuyệt chủng, có tên trong Sách Đỏ của Việt Nam và thế giới”, ông Liên dẫn chứng.
Tiến sỹ Tilo Nadler, Giám đốc Trung tâm Cứu hộ các loài linh trưởng Cúc Phương chia sẻ: Đến nay, Kế hoạch hành động khẩn cấp bảo tồn các loài linh trưởng tại Việt Nam đã đi qua khoảng 2/3 thời gian. Do đó, theo vị chuyên gia hàng đầu về linh trưởng này, hiện nay rất cần thiết phải sớm có những đánh giá kết quả đã đạt được, tính hiệu quả của kế hoạch để làm cơ sở triển khai tiếp trong tương lai.
Các chuyên gia cũng cho rằng, để bảo tồn các loài linh trưởng, bên cạnh nỗ lực của Chính phủ, các trung tâm cứu hộ, còn cần sự vào cuộc của cả cộng đồng, trong đó nòng cốt là các sinh viên được đào tạo bài bản.
GS, TS Phạm Văn Điển, Hiệu trưởng Trường đại học Lâm nghiệp cho biết: Hiện Đại học Lâm nghiệp đang chuẩn bị thực hiện một chương trình đào tạo mới về động vật hoang dã, bao gồm các khoá học ngắn hạn và chuyên ngành động vật hoang dã kéo dài 4 năm.
Chúng tôi cũng có ý định thành lập một Trung tâm động vật hoang dã để thực hiện mọi hoạt động liên quan đến bảo vệ, bảo tồn động vật hoang dã, đặc biệt là các loài trong danh sách CITES.
GS, TS Phạm Văn Điển, Hiệu trưởng Trường đại học Lâm nghiệp
"Chúng tôi cũng có ý định thành lập một Trung tâm động vật hoang dã để thực hiện mọi hoạt động liên quan đến bảo vệ, bảo tồn động vật hoang dã, đặc biệt là các loài trong danh sách CITES", ông Điển nói.
Trong khi đó, bà Nguyễn Thị Kim Yến (Văn phòng hợp tác Hội động vật học Frankfurt - FZS) cho biết, bắt đầu từ năm 2006 đến nay, FZS đã phối hợp Đại học Đà Nẵng tổ chức được 15 khóa tập huấn cho 324 sinh viên về bảo tồn các loài linh trưởng. Mục tiêu của chương trình nhằm giúp các học viên hiểu thêm về thiên nhiên nói chung, linh trưởng nói riêng; đồng thời hy vọng tìm kiếm thêm các nhà bảo tồn trẻ có thể tham gia vào hành trình giữ nhà cho linh trưởng tại Việt Nam trong tương lai.
“Tính tới năm 2021, 11% sinh viên tham gia các khóa tập huấn tiếp tục gắn bó với công tác bảo tồn, 74% học viên chia sẻ có thể áp dụng được các kiến thức vào thực tế. Nhiều học viên sau đó tiếp tục các công việc có liên quan như dẫn tour trải nghiệm thiên nhiên, giáo viên hoặc tự thực hiện các dự án độc lập. Họ sẽ tiếp tục truyền cảm hứng, kiến thức và truyền thông cho cộng đồng nhiều hơn về các loài linh trưởng bản địa”, bà Yến chia sẻ.
Các sinh viên tham dự khóa tập huấn về linh trưởng do FZS tổ chức. (Ảnh: Nhân vật cung cấp) |
Bà Yến cũng kiến nghị, để công tác giáo dục hiệu quả hơn, các tổ chức bảo tồn cần cùng nhau xây dựng chương trình dài hạn cho phép các bạn trẻ tham gia, đồng thời có chính sách hỗ trợ khi khóa học đã kết thúc thay vì chỉ kéo dài một vài năm như hiện nay.
“Trên thế giới đã có rất nhiều chương trình thành công khi các tổ chức phi Chính phủ (NGO) đồng hành cùng các trường đại học. Tôi nghĩ, các tổ chức NGO và các trường đại học tại Việt Nam nên ngồi lại với nhau để xây dựng chương trình dài hơi. Bởi xây dựng năng lực cho các nhà bảo tồn trẻ không phải là câu chuyện ngắn hạn. FSZ đã thực hiện điều này trong suốt 15 năm qua khi đồng hành cùng Đại học Đà Nẵng và tới tận bây giờ mới thấy những tia sáng nhỏ ban đầu”, bà Yến kết luận.