Ngày 6-12-1953, Bộ Chính trị nhất trí thông qua phương án tác chiến của Tổng Quân ủy quyết tâm và quyết định mở Chiến dịch Ðiện Biên Phủ. Nhu cầu về nhân lực, vật lực cho kháng chiến ngày càng lớn. Ðể phát huy sức mạnh của nông dân đối với chiến dịch, Ðảng đã chủ trương đẩy mạnh một bước bồi dưỡng nông dân, làm cho họ "có ruộng cày, có cơm ăn áo mặc, nhà ở". Ngày 19-12-1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh công bố thi hành Luật cải cách ruộng đất. Ðợt thí điểm cải cách ruộng đất được bắt đầu trong sáu xã Tân Thái, Trần Phú, Bình Thuận, Ðộc Lập, Hùng Sơn, An Mỹ của tỉnh Thái Nguyên từ ngày 21-12-1953 đến hạ tuần tháng 3-1954 thì kết thúc. Sau khi khai hội tổng kết kinh nghiệm, huấn luyện thêm một số cán bộ, phong trào được mở rộng ra trong 47 xã của ba huyện Ðại Từ, Ðồng Hỷ, Phủ Bình (Thái Nguyên) và ở sáu xã thí điểm của huyện Nông Cống (Thanh Hóa).
Giữa lúc chúng ta đang chuẩn bị mọi điều kiện cần thiết cho Chiến dịch Ðiện Biên Phủ, cuộc cải cách ruộng đất bắt đầu, chỉ tính riêng sáu xã thí điểm cải cách ruộng đất "đã thu về 2.609 mẫu 6 sào 11 thước chia cho nông dân không có ruộng và thiếu ruộng"(1). Ước mơ ngàn đời của người nông dân là có ruộng cày được đáp ứng đã góp phần cổ vũ phong trào nông dân trong cả nước hăng hái lao động, sản xuất đóng góp sức người, sức của cho tiền tuyến.
Nông dân ở các vùng nông thôn trong cả nước, đặc biệt là nông dân ở các liên khu 3, 4, Việt Bắc, Thanh Hóa đã sản xuất lương thực, thực phẩm... cung cấp cho bộ đội trên chiến trường. Theo báo cáo của Hội đồng cung cấp Trung ương ngày 10-7-1954, ta đã cung cấp cho bộ đội ngoài tiền tuyến 12.110 tấn gạo, 570 tấn thịt, 512 tấn thức ăn khô, 61 tấn đường, 259 tấn muối, huy động 25.155 dân công và 2.724 xe đạp thồ, thực hiện được nhiệm vụ cung cấp đó, chúng ta đã huy động sức người, sức của trong nhân dân lớn hơn nhiều. Nhân dân các dân tộc Tây Bắc, Việt Bắc, Liên khu 3 và Thanh Hóa đã đóng góp 24.086 tấn gạo, 907 tấn thịt, 918 tấn thức ăn khô, 62,7 tấn đường. Những con số này thể hiện ý chí, quyết tâm đánh thắng giặc Pháp xâm lược của toàn dân tộc Việt Nam trong kháng chiến, trong đó có giai cấp nông dân.
Sức mạnh của nông dân được giải phóng khỏi ách thống trị hàng nghìn năm của phong kiến, thực dân, được làm chủ nông thôn, làm chủ ruộng đất - sức mạnh đó không chỉ thể hiện trong lao động, sản xuất ra của cải vật chất, lương thực, thực phẩm, mà cả trong việc phục vụ chiến đấu. Các đoàn dân công hỏa tuyến, chủ yếu là nông dân, đã đóng góp hàng triệu ngày công, tham gia làm đường, tải đạn, thồ hàng, gánh lương thực, thực phẩm và của cải vật chất khác tiếp tế cho bộ đội ngoài tiền tuyến.
Tại Liên khu Việt Bắc, trong báo cáo sơ bộ về đợt 1 cải cách ruộng đất ở 47 xã, "nông dân được phát động đã vừa đấu tranh, vừa đẩy mạnh kháng chiến và sản xuất. Tổng cộng các xã đã huy động tới hơn 5.000 dân công, đủ hoặc vượt mức. Xã Quyết Thắng, số dân công đi dài hạn, huyện giao về lấy 142 người thì có 225 người xung phong. Cũng xã ấy thuế nông nghiệp vụ hè trên định mức 20 tấn, mà gọn trong bảy ngày đã thu được 34 tấn 665 cân"(2).
Nông dân đã tham gia các đoàn dân công phục vụ chiến dịch trong điều kiện hết sức gian khổ, họ phải gánh nặng, thồ nhiều những khối lượng vật chất vượt qua hàng trăm cây số, vượt qua đèo cao, suối sâu, trên những con đường gập ghềnh và dốc, phải giữ gìn từng hạt gạo, viên đạn đưa đến tận tay chiến sĩ nơi chiến hào, vừa chăm sóc cho các thương binh, bệnh binh, vừa chuyển các chiến sĩ bị thương về trại cứu thương... dưới làn mưa bom đạn của quân thù, song họ không hề nao núng, bất chấp mọi hiểm nguy, gian khổ, sẵn sàng hy sinh tất cả cho độc lập, tự do.
Trong bài Hoan hô chiến sĩ Ðiện Biên, khi nói về các đoàn dân công phục vụ chiến dịch, Tố Hữu viết:
Và những chị, những anh,
ngày đêm ra tiền tuyến
Mấy tầng mây, gió lớn mưa to
Dốc Pha Ðin, chị gánh anh thồ
Ðèo Lũng Lô, anh hò chị hát
Dù bom đạn, xương tan thịt nát
Không sờn lòng, không tiếc tuổi xanh.
Không chỉ tham gia sản xuất, phục vụ chiến dịch, nông dân Việt Nam còn hăng hái tham gia chiến đấu, những người lính, những chiến sĩ ngoài mặt trận đều xuất thân từ nông dân, là nông dân. Vì thế, khi thư nhà từ hậu phương gửi đến tận tay các chiến sĩ nơi chiến hào Ðiện Biên Phủ báo tin gia đình vừa được chia ruộng đất và nông cụ, mùa vụ sản xuất bội thu, các chiến sĩ như được tiếp thêm niềm tin và sức mạnh, đánh những trận sống mái với quân thù. Sau ba đợt tiến công anh dũng với 56 ngày đêm chiến đấu, từ ngày 13-3-1954 đến ngày 7-5-1954, Chiến dịch Ðiện Biên Phủ kết thúc thắng lợi hoàn toàn.
Thắng lợi của Chiến dịch Ðiện Biên Phủ là thắng lợi tổng hợp của nhiều nguyên nhân, trong đó đường lối lãnh đạo đúng đắn của Ðảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nguyên nhân quyết định. Với đường lối ấy, sức mạnh to lớn của toàn dân và nhất là của giai cấp nông dân đã được phát huy một cách cao độ. Sự tham gia phục vụ chiến đấu của các đoàn dân công, chủ yếu là nông dân, là hình ảnh nổi bật thể hiện sức phát triển mạnh mẽ của chiến tranh nhân dân, hậu cần nhân dân. Chính đối phương phải chua xót thừa nhận rằng, "máy bay của Pháp đã thua đôi bồ dân công của Việt Minh".
Ngày nay, trong sự nghiệp đổi mới, CNH, HÐH đất nước, tinh thần, ý chí, sức mạnh và truyền thống của nông dân Việt Nam trong lịch sử nói chung và trong Chiến dịch Ðiện Biên Phủ nói riêng luôn được phát huy mạnh mẽ. Nông dân đang tích cực lao động, sản xuất, áp dụng những tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào nông nghiệp giành hiệu quả cao, xây dựng nông thôn Việt Nam ngày càng giàu đẹp.
LÊ THỊ LÝ
(Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III)
---------------
(1), (2). Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III, P.Quốc hội, hồ sơ 687.