Trầu không có tên khác là trầu cay, trầu lương.
Dây mọc bám bằng rễ phụ ở mấu. Lá mọc so le, nhẵn bóng. Cụm hoa mọc buông thõng. Quả mọng. Toàn cây có tinh dầu thơm cay.
Cây được trồng phổ biến khắp nơi trong cả nước, nhất là trong miền nam, có những thôn toàn vườn trầu.
Tục ăn trầu của nhân dân ta có từ lâu đời. Ăn trầu để khỏi hôi miệng, làm cho bộ răng thêm chắc, đỡ sâu, giúp nhuận tràng, dễ tiêu.
Lá trầu không và gừng sống ép lấy nước chữa ho, khó thở, đầy bụng. Nước ép lá trầu nhỏ vào tai chữa đau tai. Hàng ngày, súc miệng bằng nước có dịch ép lá trầu không phòng được viêm họng, có tác dụng trợ lực tốt cho các thuốc trị bệnh bạch hầu.
Lá trầu không và lá ráy, giã nhỏ, hơ nóng, đắp chữa sưng tấy. Trầu không (3 - 5 lá), hạt cau (1 hạt), phơi khô, tán bột rắc làm thuốc cầm máu.
Trong những năm kháng chiến chống Mỹ, nhiều đơn vị y tế ở chiến trường miền nam đã dùng nước trầu không - phèn chua để rửa vết thương đạt kết quả tốt. Cách làm như sau: lá trầu không tươi (40g) rửa sạch, đun với hai lít nước sôi trong 15 - 20 phút. Để nguội, gạn lấy nước trong, cho phèn phi (8g) vào, đánh tan. Lọc. Nước này được dùng thay thuốc tím và thuốc đỏ.
Lá trầu không phơi khô, tán thành bột, lấy 1 kg ngâm nhỏ giọt với 4 lít nước, rồi cô nước ngâm thành cao đặc, sau đó, pha chế cao trầu không với vaselin thành thuốc mỡ 1%. Bệnh viện Saint Paul (Hà Nội) đã dùng thuốc mỡ này để chữa bỏng đạt kết quả rất tốt.
Rễ trầu không (10g, có thể dùng thân hoặc lá), rễ cau (10g), thái nhỏ, sắc với 400ml nước còn 100ml uống làm hai lần trong ngày. Chữa đái nhắt. Dùng liền vài ngày cho đến khi khỏi. Kinh nghiệm này của nhân dân ta, nhân dân Lào và nhân dân một số nước Đông - Nam Á khác. Cơ chế tác dựng của thuốc là rễ trầu không có chứa các chất có tinh kháng khuẩn và tiêu viêm mạnh, rễ cau có nhiều muối vô cơ, nhất là ka li, có tác dụng lợi tiểu rõ rệt.
Phụ nữ có thai không nên dùng.