Theo đó, xuất khẩu nhóm nông sản chính đạt hơn 7,4 tỷ USD, tăng 10,5%; lâm sản chính đạt gần 5,9 tỷ USD, tăng 4,9%; thủy sản ước đạt gần 3,6 tỷ USD, tăng 43,7%...
Năm mặt hàng có giá trị xuất khẩu đạt hơn 1 tỷ USD
Trong 4 tháng đầu năm, đã có 5 sản phẩm/nhóm sản phẩm có giá trị xuất khẩu đạt hơn 1 tỷ USD, gồm: cà-phê, gạo, nhóm rau quả, tôm, sản phẩm gỗ. Một số mặt hàng đạt giá trị xuất khẩu cao hơn so cùng kỳ, như: cà-phê, cao-su, hồ tiêu, sắn và các sản phẩm từ sắn, cá tra, tôm, gỗ và các sản phẩm gỗ.
Cụ thể: Giá trị xuất khẩu cà-phê đạt gần 1,7 tỷ USD (tăng 59,4%); cao-su đạt khoảng 869 triệu USD (tăng 10,9%); hồ tiêu khoảng 367 triệu USD (tăng 29,6%); sắn và sản phẩm sắn đạt 574 triệu USD (tăng 29,5%), cá tra đạt 894 triệu USD (tăng 89,6%), tôm đạt hơn 1,3 tỷ USD (tăng 38,6%), gỗ và sản phẩm gỗ đạt gần 5,5 tỷ USD (tăng 4,5%); mây, tre, cói thảm đạt 339 triệu USD (tăng 22,7%). Những mặt hàng giảm gồm: Chè đạt 51 triệu USD (giảm 13,2%), nhóm hàng rau quả đạt khoảng 1,2 tỷ USD (giảm 14,6%), hạt điều ước đạt 889 triệu USD (giảm 6,7%).
Về nhập khẩu, tính chung 4 tháng đầu năm, kim ngạch nhập khẩu các mặt hàng nông, lâm, thủy sản ước gần 13,9 tỷ USD, giảm 2,3% so cùng kỳ năm 2021. Trong đó, giá trị nhập khẩu các mặt hàng nông sản chính ước đạt gần 8,8 tỷ USD, giảm 2,9%; nhóm hàng thủy sản ước khoảng 564,3 triệu USD, tăng 13,0%; nhóm lâm sản chính khoảng 988,2 triệu USD, giảm 3,6%; nhóm sản phẩm chăn nuôi khoảng 979,8 triệu USD, giảm 14,9%; nhóm đầu vào sản xuất ước gần 2,4 tỷ USD, tăng 4,0%. Đến tháng 4, Campuchia lại trở thành thị trường xuất khẩu nông sản sang Việt Nam nhiều nhất, đạt 1,6 tỷ USD, chiếm 11,4% thị phần (trong đó, hạt điều chiếm 50,8% giá trị); tiếp theo là Mỹ và Brazil đều đạt khoảng 1,1 triệu USD, chiếm 8,1% (mặt hàng bông chiếm khoảng 34,4% giá trị hàng từ Mỹ và 30,9% từ Brazil).
Đa dạng thị trường xuất khẩu
Về thị trường xuất khẩu, ước giá trị xuất khẩu nông, lâm, thủy sản 4 tháng đầu năm của Việt Nam tới các thị trường thuộc khu vực châu Á (chiếm 41,0% thị phần), châu Mỹ (29,7%), châu Âu (12,8%), châu Phi (1,8%) và châu Đại Dương (1,7%).
Thị trường xuất khẩu lớn nhất là Mỹ đạt gần 4,9 tỷ USD (chiếm 27,3% thị phần), trong đó kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng gỗ và sản phẩm gỗ chiếm tới 68,2% tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản của Việt Nam tại thị trường này.
Thứ hai là thị trường Trung Quốc với hơn 3,2 tỷ USD (chiếm 18,1% thị phần) với kim ngạch xuất khẩu nhóm cao-su chiếm 22,4% tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản.
Thứ ba là thị trường Nhật Bản với giá trị xuất khẩu đạt gần 1,3 tỷ USD (chiếm 7,1%).
Thứ tư là thị trường Hàn Quốc với giá trị xuất khẩu đạt khoảng 822 triệu USD (chiếm 4,6%).
Thời gian tới, để tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu nông, lâm, thủy sản, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sẽ tăng cường đẩy mạnh các hoạt động hợp tác song phương, đa phương, mở cửa thị trường. Chuẩn bị tổ chức đoàn giao thương, quảng bá chuỗi cung ứng trái cây, thủy sản tại Trung Quốc. Tập trung đàm phán, hoàn thiện các thủ tục để thúc đẩy xuất khẩu xoài, thịt gà sang Hàn Quốc; bưởi, chanh ta sang Newzealand; lông vũ, yến và sản phẩm từ yến, sữa và sản phẩm từ sữa sang Trung Quốc; mật ong sang EU. Tiến hành khảo sát vùng trồng bưởi, nhà máy chiếu xạ để tiến tới xuất khẩu bưởi sang Mỹ; đề xuất mở cửa thị trường sản phẩm nông sản đối với các nước tham gia Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP).