Mẹ mất sớm, Út Đực (tên thường gọi của Tô Văn Đực) phải làm thuê, làm mướn nuôi thân. Năm 1960, Đồng khởi nổ ra, Tô Văn Đực, 20 tuổi, xin gia nhập lực lượng du kích xã Nhuận Đức. Hành trang theo anh vào cuộc chiến là nghề sửa xe đạp và kỹ thuật cơ giới học được từ những năm tha phương kiếm sống.
Chỉ huy Xã đội Nhuận Đức phân công Út Đực vào công xưởng sản xuất vũ khí của xã. Bằng dụng cụ thô sơ và những sáng kiến cải tiến của Tô Văn Đực, xưởng đã sản xuất ra các loại súng mô phỏng súng ngựa trời, súng trường, súng cạc-bin, súng K54 và côn 12 ly. Đầu năm 1965, tên tuổi Tô Văn Đực được biết nhiều hơn với chiếc mìn gạt chống các loại xe tăng M113, M118 vì loại vũ khí này gây ra nhiều tổn thất cho quân địch. Chuyện làm mìn gạt cũng diễn ra trong hoàn cảnh hết sức đặc biệt. Trận càn Crimp của Mỹ vào đầu năm 1966 có quy mô lớn với nhiều xe tăng, máy bay yểm trợ càn quét sâu vào vùng giải phóng. Từ các loại bom bi do máy bay Mỹ rải thảm xuống làng mạc còn sót lại, Tô Văn Đực đã sáng chế thành loại mìn gạt và chiến công đầu tiên là nhiều chiến xa M113, M118 của địch phải đứt xích, bỏ thây sắt ở chiến trường.
Từ kết quả này, việc sản xuất mìn chống tăng đã được phổ biến cho nhiều vùng để anh em du kích vừa trực tiếp chiến đấu vừa nâng cao chất lượng mìn. Chính vì thế, những trái mìn gạt, mìn gài, những bệ phóng bom bi ra đời… hàng loạt sau đó. Với những thành tích xuất sắc trong chiến đấu và phục vụ chiến đấu, Tô Văn Đực được vinh dự kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam khi mới 26 tuổi, lễ kết nạp diễn ra ngay chiến hào chống càn. Tô Văn Đực còn được tặng thưởng bốn huân chương các loại và các danh hiệu: “Dũng sĩ diệt Mỹ”, “Dũng sĩ diệt cơ giới”, “Dũng sĩ diệt xe tăng” bằng chính những trái mìn do mình làm ra. Đặc biệt, anh đã vinh dự được Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền nam Việt Nam phong tặng danh hiệu “Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân”.
SAU giải phóng, Tô Văn Đực tiếp tục công tác tại Trung đoàn Gia Định. Năm 1992, ông về hưu với quân hàm trung tá. Thời gian đầu rời quân ngũ, ông mở một cơ sở cơ khí chuyên sửa xe cải tiến ở Hóc Môn để cùng vợ nuôi các con ăn học. Năm 2000, con trai lớn ra trường có việc làm ổn định, ông về quê nhà Nhuận Đức mua lại mảnh đất ruộng phèn sình lầy. Những ngày đó, người anh hùng trong cuộc chiến năm xưa ra sức tháo chua, rửa phèn, đào mương, lên liếp trồng cây ăn trái, trồng rau, nuôi heo. Để đầu tư cho sản xuất, ông đã dùng lương hưu của hai vợ chồng đi học hỏi kinh nghiệm và sưu tầm cây giống, vật nuôi ở các tỉnh, mang về nuôi trồng.
Tiếp chúng tôi trong căn nhà gỗ cũ kỹ đơn sơ mà ấm cúng, vợ ông (cũng là trung tá công an nghỉ hưu) bẻ nhành mận đầy trái mời khách. Vừa ăn mận vừa nghe tiếng lá hát xào xạc cùng tiếng gù của những con cu đất, chúng tôi như quên đi tất cả ồn ào của đô thị. “Về đây sinh sống, cứ mỗi chiều nghe tiếng chim kêu, lòng lại quặn thắt nhớ những đồng chí, đồng đội đã hy sinh, nhớ những năm tháng ác liệt nhất của cuộc chiến. May mắn là tui còn sống, chứng kiến được độc lập, thanh bình nên cho dù thế nào đi nữa tui cũng phải ráng để không phụ lòng anh em”- ông Út Đực tâm sự.
Với tinh thần của người chiến sĩ quân giới năm xưa, ông tìm lại đồ nghề cơ khí làm một số dụng cụ và mìn (mô hình), trao tặng Nhà truyền thống huyện Củ Chi để trưng bày. Là một nhân vật lịch sử, ông thường kể cho lớp trẻ về những ngày tháng chiến đấu ác liệt của quân dân Củ Chi anh hùng.
Trong những ngày toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta kỷ niệm 85 năm Ngày thành lập Đảng, chúng tôi lại tìm đến người “Anh hùng mìn gạt” huyền thoại, biểu tượng của Củ Chi đất thép năm xưa. 75 tuổi đời, gần 50 năm tuổi Đảng, “Anh hùng mìn gạt” tiếp tục có những đóng góp cho quê hương. Tiếp xúc với ông, chúng tôi nhận ra sự bao dung, độ lượng và cốt cách của một anh hùng dù trong hoàn cảnh nào vẫn giữ trọn lời thề, khí tiết, kiên trung với cách mạng, với nhân dân.