Dịch hạch và các biện pháp phòng, chống

ND - Dịch hạch là một bệnh truyền từ các loài động vật gặm nhấm sang người, là một bệnh cổ xưa nhất ở loài người, hiện vẫn tồn tại nhiều ổ dịch địa phương trên thế giới, đặc biệt ở các nước nhiệt đới và bán nhiệt đới.

Dịch hạch là một bệnh lưu hành ở các nước châu Phi, Liên Xô (trước đây), châu Mỹ và châu Á. Bệnh xảy ra ở người thường gắn với sự lưu hành các ổ bệnh thiên nhiên ở động vật gặm nhấm hoang dại.LỊCH sử loài người đã trải qua ba vụ đại dịch hạch. Ðại dịch đầu tiên ghi nhận vào thế kỷ thứ 6, khoảng từ năm 542 đến 546, bắt đầu từ La Mã lây lan sang châu Âu. Ðại dịch lần thứ hai kinh hoàng với tên "Bệnh chết đen - Black Death" vào thế kỷ 14, khoảng từ năm 1347 đến 1350. Ước tính khoảng 50 triệu người trên thế giới tử vong trong đại dịch này. Trong đó, một nửa số nạn nhân là ở châu Âu chiếm khoảng một phần ba dân số ở đó thời bấy giờ. Tỷ lệ tử vong trong đại dịch này từ 70 đến 80%. Ðại dịch thứ ba bắt đầu ở Can-ton và Hồng Công vào năm 1894, nhanh chóng lan khắp thế giới. Trong vòng mười năm (1894-1903), dịch đã lan đến 77 thành phố cảng trên khắp năm châu, chỉ riêng ở Bom-bay (Ấn Ðộ) đã làm khoảng 13 triệu người chết. Những đợt dịch gần đây cho thấy dịch có thể xuất hiện trở lại ở những vùng nhiều năm không có dịch tưởng như đã thanh toán được dịch hạch. Năm 2007, trên thế giới có bảy nước báo cáo 2.021 ca bệnh và 156 ca tử vong, trong đó 99,6% số ca ở các nước châu Phi.

Tại Việt Nam dịch hạch có mặt trong bối cảnh của đại dịch lần thứ ba. Dịch được chia thành các thời kỳ: thời kỳ dịch xâm nhập và lây lan trong nước (1898-1922); thời kỳ lắng dịu và trở thành dịch lưu hành địa phương (1923-1960); thời kỳ bùng phát, lan tràn trên diện rộng (1961-1990); thời kỳ thu hẹp và tồn tại dai dẳng tại một số ổ dịch (1991-2002) và thời kỳ "im lặng" trên phạm vi toàn quốc (từ năm 2003 đến nay). Với sự cố gắng của ngành y tế và sự tham gia tích cực của cộng đồng, sau hơn một thế kỷ xâm nhập và lưu hành ở các địa phương và với mức độ khác nhau, từ năm 2003 đến nay, không còn ghi nhận ca bệnh dịch hạch nào nữa trên toàn lãnh thổ nước ta.

Tác nhân gây bệnh dịch hạch là vi khuẩn Yersinia pestis, lưu hành trong quần thể gặm nhấm và bọ chét ký sinh trên chúng, từ đó lây truyền sang các loại động vật khác và sang người qua trung gian bọ chét nhiễm khuẩn. Các loài gặm nhấm, quan trọng là các loài chuột sống gần người, đứng đầu là chuột đồng và chuột cống, là con vật chủ yếu duy trì và lưu hành bệnh dịch hạch. Trung gian truyền bệnh dịch hạch là bọ chét sống ký sinh trên chuột. Phổ biến nhất là bọ chét Xenopsylla cheopis. Bệnh có thể lây sang người qua bọ chét đốt, tiếp xúc trực tiếp với dịch tiết của động vật bị bệnh, qua hít phải giọt không khí có chứa vi khuẩn từ người hay động vật mắc dịch hạch thể phổi. Mọi người đều có cảm nhiễm với bệnh dịch hạch. Miễn dịch sau khi khỏi bệnh là tương đối ngắn và có thể mắc lại.

Bệnh khởi phát với hội chứng giống cúm, sau một thời gian ủ bệnh từ một đến bảy ngày, bệnh khởi phát đột ngột với triệu chứng sốt, rét run, đau đầu, đau người, mệt mỏi, nôn và buồn nôn. Biểu hiện lâm sàng có thể được chia làm ba thể chính, phụ thuộc vào đường lây truyền, đó là thể hạch, thể nhiễm trùng huyết hay thể phổi. Dịch hạch thể hạch là thể phổ biến nhất do bọ chét từ chuột bị dịch hạch nhảy sang đốt người. Vi khuẩn dịch hạch vào cơ thể qua vết đốt ở da, vào hệ thống bạch huyết và đến hạch gần nhất, gây viêm và sưng hạch, mưng mủ, người bệnh có cảm giác rất đau, sau đó hạch có thể vỡ ra. Dịch hạch thể nhiễm trùng huyết, ít phổ biến hơn, khi vi khuẩn từ vết đốt của bọ chét hay qua vết xước ở da trực tiếp vào máu. Bệnh diễn biến nặng hơn, có thể có thêm các triệu chứng như choáng nhiễm trùng nhiễm độc, xuất huyết dưới da hay xuất huyết các phủ tạng. Dịch hạch thể phổi là thể nặng và nguy hiểm nhất. Người bệnh có thêm các triệu chứng như ho ra máu, đau ngực, khó thở... Thông thường thể này là diễn biến thứ phát của dịch hạch thể hạch, do vi khuẩn vào máu, đến phổi gây viêm phổi. Người mắc dịch hạch thể phổi có thể làm lây truyền từ người này sang người khác qua các giọt nước bọt có chứa vi khuẩn qua ho, hắt hơi. Dịch hạch thể phổi có thể là do hít phải những hạt không khí giọt nhỏ có chứa vi khuẩn dịch hạch. Thời tiết lạnh và tập trung nơi đông người làm tăng nguy cơ lây truyền bệnh.

Nếu không được điều trị kịp thời, tỷ lệ tử vong có thể là 50-60%. Còn nếu được phát hiện, điều trị sớm, có thể giảm từ 60% xuống 15%. Ðiều trị đúng và kịp thời bằng kháng sinh bệnh có thể khỏi. Dịch hạch thể phổi là một trong những bệnh có tỷ lệ tử vong cao nhất, nếu không được điều trị, người bệnh có thể tử vong sau 24 giờ sau khi nhiễm trùng. Ðộ nhạy cảm của vi khuẩn dịch hạch với các thuốc kháng sinh không đồng nhất giữa các vùng địa lý trên thế giới, nhưng nhìn chung vẫn nhạy cảm với các kháng sinh như Streptomycin, Tetracycline, Chloramphenicol và Cotrimoxazol.

Biện pháp dự phòng có hiệu quả nhất là thường xuyên giám sát vật chủ, vật trung gian truyền bệnh, các ổ dịch ở động vật và xử lý nhanh nhằm hạn chế phơi nhiễm khi dịch xảy ra ở động vật, như phát hiện sớm và điều trị kịp thời cho người bệnh, điều trị dự phòng với những người tiếp xúc và có nguy cơ lây bệnh, diệt chuột và diệt bọ chét. Cần tăng cường giáo dục sức khỏe nâng cao hiểu biết của người dân về bệnh và các biện pháp phòng chống, tránh bị bọ chét đốt, tránh tiếp xúc với chuột chết khi dịch hạch xảy ra ở chuột, tránh tiếp xúc với vật phẩm nhiễm trùng, và đặc biệt tránh tiếp xúc với người bệnh dịch hạch thể phổi. Cần thực hiện tốt công tác vệ sinh môi trường, hạn chế tối đa việc cho chuột sống và sinh sản, như triệt nguồn thực phẩm, giữ vệ sinh môi trường. Thấy chuột chết bất thường phải khai báo ngay cho cơ quan y tế nơi gần nhất. Phải tiến hành diệt bọ chét trước khi diệt chuột để tránh tăng phơi nhiễm của bọ chét với người. Diệt chuột thường xuyên bằng các biện pháp cơ học, sinh học và hóa học. Nếu có người trong nhà hay hàng xóm biểu hiện bệnh như sốt, ho ra máu, nổi hạch..., phải đến ngay cơ sở y tế để khám và điều trị. Khi xuất hiện dấu hiệu lâm sàng nghi ngờ dịch hạch thể phổi thì tiến hành ngay việc cách ly và điều trị người bệnh cho đến khi kết quả xét nghiệm âm tính. Cần giám sát chặt chẽ những người đã tiếp xúc với người bệnh dịch hạch thể phổi trong thời kỳ ủ bệnh cũng như trong thời gian cách ly và các biện pháp điều trị dự phòng đã sử dụng. Thông tin về tiền sử về du lịch và các hoạt động của người bệnh sẽ gợi ý cho khả năng xác định những người tiếp xúc. Người tiếp xúc phải được theo dõi trong bảy ngày và đặc biệt là người tiếp xúc với người bệnh thể phổi phải được điều trị dự phòng bằng kháng sinh tetracycline hay doxycyline trong bảy ngày. Ngoài ra, cần tăng cường các biện pháp kiểm dịch y tế biên giới theo Ðiều lệ y tế quốc tế, nhằm hạn chế việc vận chuyển chuột, các động vật gặm nhấm nhiễm bệnh qua biên giới, cách ly kịp thời người từ vùng có dịch. Vắc-xin phòng bệnh dịch hạch được sử dụng ở một số nước hiện nay nhưng không thật sự hiệu quả, không nên sử dụng như một biện pháp chống dịch khi dịch đang xảy ra, mà nên phối hợp với các biện pháp khác, chỉ nên sử dụng cho nhóm người có nguy cơ cao, thí dụ như nhân viên phòng xét nghiệm hay người thường xuyên đi vào vùng dịch và chỉ có tác dụng dự phòng dịch hạch thể hạch.

PGS, TS NGUYỄN TRẦN HIỂN
Viện trưởng Vệ sinh Dịch tễ T.Ư

Có thể bạn quan tâm