Đi tìm nguồn gen của một giống gà

Qua khỏi cầu Hồ (trước là bến phà), nếu rẽ phải, đi theo tả ngạn, sẽ là làng tranh Đông Hồ, ngôi làng mà tên của nó đã nổi tiếng không chỉ khắp nước mà cả thế giới về một nghề rất đặc trưng: In tranh điệp trên giấy dó; còn rẽ trái, sẽ là một ngôi làng khác, có một nghề đặc trưng khác, đó là nghề chăn gà Hồ. Giống gà đặc biệt ở chỗ nó được mệnh danh là "gà đệ nhất Bắc kỳ", đứng trên bảng "top gà Đông Tảo (Hưng Yên), gà Mía (Sơn Tây).

Cuộc hành trình tìm lại nguồn gen gà Hồ gốc (thuần chủng) của những người dân trong làng đang dang dở thì đại dịch "cúm gà" (vinls H5N1) ập đến - cuối năm 2003 và đầu năm 2004. Dịch cúm gà không chỉ khiến cả nước lo toan mà chỉ ngay trong ngôi làng hẻo lánh trên cũng nháo cả lên.

Người ta không lo bị thiệt hại nghiêm trọng về kinh tế như ở nhiều nơi có cả trang trại gà vài nghìn con bị "truy quét", chuồng trại bị niêm phong mà chỉ có một mối lo duy nhất: Nếu cúm gà lan truyền đến làng, các gia đình phải mang gà đi tiêu hủy dù có thể gà không hề mắc bệnh - thì loài gà Hồ sẽ tuyệt chủng. Đến xem cách người làng Hồ nuôi gà, "ươm" gà mới biết họ yêu gà tiếc gà ra sao, và vì một lý do khác: Không muốn tự tay đánh mất một nguồn gen quý hiếm của quốc gia mà cha ông họ để lại.

Thật may, khi dịch cúm gà xảy ra, cơ quan quản lý nhà nước đã kịp nghĩ đến giống gà Hồ và khẩn trương tìm phương án bảo tồn giống gà Hồ quý hiếm. Người làng Hồ ai cũng vinh dự khi thấy Chính phủ cũng biết làng họ có loài gà quý, và khi "nước sôi lửa bỏng", Thủ tưởng Chính phủ đã có lệnh bảo vệ nghiêm ngặt nguồn gen, giống gốc của một danh sách loài gà quý hiếm, trong đó có gà làng Hồ.

Thực tế, từ năm 1989, Chính phủ đã có chủ trương giao Viện Chăn nuôi nghiên cứu, bảo tồn giống gà Hồ nhưng đến năm 1994 dự án mới thực sự bắt đầu. Và từ trước đó, người dân làng Hồ đã tự ý thức việc khôi phục giống gà (gốc) của họ, song họ âm thầm làm bằng những kinh nghiệm dân gian chứ không có thiết bị, máy móc như của các viện.

Người khởi xướng là ông Nguyễn Đăng Chung. Năm 1992, ông cùng các cụ cao tuổi lập một tổ nuôi gà Hồ với chỉ 6-7 người. Sau vài năm, số hội viên dần tăng lên không phải vì họ nhận ra thú vui nuôi gà mà là trách nhiệm cần phải bảo tồn giống gà quý. Thế là, nhiều nơi cả trang trại gà bị tiêu hủy, nhưng cả làng Hồ lại được "giới nghiêm" để bảo vệ vẹn toàn những con gà Hồ cuối cùng! Ngoài cổng làng, bạnh chắn suốt ngày đêm. Các trạm kiểm địch đặt khắp huyện.

Đúng thời điểm đó, tôi lặn lội tìm lên làng Hồ gặp ông trưởng Hội chăn nuôi gà Hồ Nguyễn Đăng Chung, đề nghị được khảo sát tình hình dịch. Ông Chung ngoài 40 tuổi, một người chân tình, nhưng bằng mọi giá khước từ. Ông bảo: "Từ một tháng trước chúng tôi đã "giới nghiêm" các chuồng gà, cấm cho người lạ đột nhập". Đàn gà của ông Chung nuôi nhốt, bảo vệ ngay trong khu vườn gia đình, nhưng ngay cả vợ con ông cũng không được vào ngoại trừ ông và cán bộ thú y mỗi lần ra vào đều vệ sinh, tẩy uế rất kỹ.

Mới đây, tôi lại trở lại. Ông Chung mừng khoe đàn gà của cả làng Hồ đã được bảo vệ "mỹ mãn" qua đại dịch. Mặc dù một số khách có thể vào thăm, song các chuồng gà, trại gà vẫn được rào chắn cẩn mật bởi việc đề phòng dịch cúm tái phát luôn được coi trọng. Ông nhẹ nhàng bật nắp cửa chuồng, một đàn gà đủ các tháng túa ra vườn. Tất cả có hơn 50 con.

Ông nói gia đình không dám đưa loại gà khác về chăn, mặc dù biết có lợi nhuận kinh tế, bởi làm vậy khó theo đuổi được mục tiêu khôi phục giống gà thuần chủng. Ném nắm thóc ngâm ra cho đàn gà xíu xít nhặt, ông kể lại: "Khi có dịch cúm, Viện Chăn nuôi báo cho bà con. Chúng tôi rất hoảng, vội chọn ra 261 con gà thuần chủng (thực tế chỉ đạt khoảng 95% gen gốc) và 286 con gần thuần chủng đưa về nuôi tập trung tại 10 gia đình có điều kiện cách ly tốt nhất. Lúc đấy chúng tôi xác định, nếu đàn gà Hồ của cả làng bị tiêu diệt thì bằng mọi giá phải giữ được hơn 500 con gà trên để làm vốn cho quốc gia".

Để lai tạo được số gà trên, theo ông Chung, cần sự kỳ công của cả tập thể hơn 10 năm qua. Hội gà Hồ, do ông Chung làm trưởng, hiện đã có 22 gia đình tham gia. Nếu tính tổng thể, cả làng đang có gần 1.200 con gà Hồ, thời gian tới còn tăng lên nữa, thật may 'trong đại dịch vừa qua không một con nào bị nhiễm virus.

Dịch cúm gà hiện vẫn có nguy cơ tái phát. Nhưng dù dịch cúm có hoàn toàn bị tiêu diệt thì nỗi lòng người dân làng Hồ, nhất là 22 thành viên trong Hội gà Hồ, vẫn chưa thể vợi ưu phiền. Hơn 10 năm qua, những người trong hội đã và đang miệt mài đi tìm cho kỳ được quỹ gen gốc của gà Hồ, nhưng thực tế vẫn chưa như kỳ vọng.

Giống gà Hồ nổi tiếng cả nước bởi cả nước không nơi đâu có được giống gà trên. Thật lạ, một ngôi làng chỉ vài nghìn người, nằm nép mình bên tả ngạn sông Đuống, lại có được giống gà độc đạo, trong khi khu vực chung quanh không hề nuôi loại gà trên, tức là khu vực phân bố gà Hồ rất hẹp. Chính người làng Hồ cũng không biết nguồn gốc gà Hồ từ đâu, khi nào? Họ chỉ biết xưa, cứ mỗi dịp Tết Nguyên đán, cả làng lại có phong tục thi gà. Người ta mổ những con gà đẹp nhất trong năm nuôi được, bày lên mâm bưng ra đình làng. Những con gà tốt nhất được chấm chọn rất công phu đem tiến vua. Từ xưa, trong tranh của làng Đông Hồ bên cạnh cũng đã vẽ gà Hồ. Theo nhiều người dân làng Hồ, gà Hồ thuần chủng bị mất nguồn gen gốc vì thời chiến tranh không mấy ai chú ý việc bảo vệ giống gà, để xảy ra sự lai tạp với nhiều loài gà, nên dần dần nguồn gen gốc bị "thoái hóa".

Sự khác nhau giữa gà Hồ gốc và gà Hồ hiện tại rất rõ: Gà Hồ gốc to con, có thể đạt tới 10kg/con, thịt rất thơm, ngon; đặc biệt khả năng kháng bệnh cao và mau lớn. Hình thức, con gà Hồ trống, ngực nở, có hai màu lông đặc trưng: Màu lĩnh và màu mận. Chân tròn, vảy mịn đều màu vỏ hạt đậu nành, thân cao, mào tròn (sít) hoặc mào nụ, đầu gộc (to, sù sì). Con gà Hồ mái thường có lông màu đất thó, màu quả nhãn, hoặc chim sẻ (gọi là mã thó. mã nhạn, mã sẻ).

Gà Hồ hiện tại thường bị pha trộn nhiều màu lông, chân có vảy vôi (sù sì), mào cờ, và quan trọng là không đạt được trọng lượng như con gà gốc, người ta gọi là gà "pha". 15 năm gần đây người làng Hồ mới hối tiếc thờ ơ trước đó của họ đã vô tình đánh mất một "báu vật" không chỉ có ích cho họ mà cả quốc gia.

Nhưng cơ hội vẫn còn, dù để đạt mục tiêu rất khó khăn, cần cả thời gian và tiền. Ông Đỗ Tiến Toàn, trưởng thôn Lạc Thổ (tức làng Hồ), cũng là một thành viên của Hội gà Hồ, rất mê nuôi gà khi thấy các anh em có tham vọng tìm lại quỹ gen gà Hồ gốc - một việc lẽ ra chỉ dành cho các nhà khoa học. Trong nhà ông hiện đã có trên 50 gà Hồ lớn, nhỏ. Lứa gà Hồ vừa nở, ông lom khom bắt gà con rá khỏi ổ, được hai tuần, tách đàn để "gà mẹ nhanh nhảy ổ mới".

Ông tâm sự: "Gà Hồ đẻ thưa, mỗi lần chỉ vài quả trứng. Tôi phải tách đàn sớm để nhanh có đàn gà lớn, từ đó mới chọn được nhiều con tốt". Góc vườn, một gà Hồ trống đã nuôi hơn ba năm, nhốt kín trong lồng. Con gà ước chừng 4-5kg, cũng khá đẹp mã, nhưng ông Toàn bảo: "Nó mới chỉ đạt khoảng 85% nguồn gen gà Hồ gốc. Nếu nó thuần chủng thì phải nặng tới 8-9kg, thả ra không bay nổi qua hàng rào".

Hiện tại, 22 hội viên trong Hội gà Hồ vẫn không ngừng lai tạo các đời gà con để nâng dần tỷ lệ quỹ gen. "Môi một đàn gà ra đời, tỷ lệ đó có khi chỉ nâng lên được 1%, chúng tôi cũng cảm thấy sướng lắm rồi"- anh Nguyễn Phú Cường, 31 tuổi. tâm sự.

Nhưng, không có thiết bị kỹ thuật, không có tri thức, cuộc tìm lại gen gà gốc của họ chẳng khác nào mò kim đáy bể mà lại bị bịt mắt ông Chung tâm sự: "Lai được con gà Hồ bố, mẹ đạt tỷ lệ gen 85-90% tưởng đã mừng nhưng sau phối giống, lứa gà con nhiều khi lại hỏng toàn bộ". Chẳng hạn, gà con ra toàn hoa mơ, mào cờ, vảy vôi mặc dù có trọng lượng lớn. "Những trường hợp đó phải loại ngay"- anh Cường nói.

Năm 2000, anh Cường đã lai tạo được con gà trống nặng tới 7kg, đã đoạt giải nhất "đơn trống" trong hội thi gà Lạc Thổ ngày 10-2 âm lịch năm 2000, nhưng khi cho phối giống các lứa gà con vẫn xuất hiện những con gà "lạ" - tức trong máu con gà trống (bố) chưa phải hoàn toàn mang máu của gà Hồ gốc.

Hội gà Hồ ra đời từ năm 1992. Không phải chủ hộ nào cũng được gia nhập hội nếu không có đủ tiêu chuẩn: Phải có tối thiểu một cỗ gà (một trống, bốn mái). Anh Chung cho biết, để cải tạo nhanh đàn gà, các hội viên liên tục đổi gà phối giống để tránh hiện tượng đồng huyết, đồng thời "tăng máu" gà Hồ trong từng con gà. Bên cạnh đó, các gia đình phải nuôi cách ly gà Hồ với các loại gà. Đó là luật làng. Cách làm có vẻ "thủ công truyền thống" nhưng cũng đã mang lại hiệu quả qua từng năm. Nếu có thiết bị kiểm tra quỹ gen, chắc con đường tìm đến con gà thuần chủng (tức là gà Hồ đích thực) sẽ rút ngắn rất nhiều lần.

Một cách khác để khuấy động người dân tham gia Hội nuôi gà Hồ, để cùng tìm lại quỹ gen đã mất là hằng năm, vào ngày 10-2 âm lịch, làng Hồ đều tổ chức hội thi gà tại đình Lạc Thổ (xưa thường tổ chức vào lễ "khao tràu" mùng 4 tháng Giêng). Nhưng thi bây giờ khác xưa ở chỗ, ngày xưa người đi thi phải mổ con gà Hồ đẹp nhất mang ra tế thần rồi so tài trên mâm đồng, nay bà con chỉ dám thi gà còn sống bởi "ươm" cả vài năm mới được một con gà tốt, nếu thịt thì... mất giống. ông Chung chính là người đầu tiên khơi lại nét đẹp của cha ông. Ngày hội thi gà, cả làng kéo nhau đi xem. Số người góp gà dự thi cũng đông lên theo từng năm. "Vào hội, ông ôm gà ông, cháu ôm gà cháu. Hội thi gà vui không kém các lễ hội khác" - ông Chung tâm sự.

Theo tiến sĩ khoa học Lê Thị Thúy, phụ trách phòng thí nghiệm công nghệ gen động vật - Viện Chăn nuôi quốc gia, người chủ trì đề tài "Bảo tồn giống gà Hồ, thì gà Hồ là một giống gà đặc biệt, được xếp là một trong hơn 20 loại gia cầm quý hiếm nhất của Việt Nam. Hiện Viện đang thực hiện cả hai phương pháp cất giữ mẫu gen và bảo tồn tại nông trại. Bảo tồn bằng cất giữ mẫu gen tránh được nguy cơ rủi ro cao, đồng thời có thể bảo lưu hàng trăm năm.

Có thể bạn quan tâm