Hội thảo thu hút sự tham dự của các nhà quản lý văn hóa, chuyên gia, nhà nghiên cứu sân khấu cùng đại diện lãnh đạo nhiều đơn vị nghệ thuật.
Phát biểu khai mạc hội thảo, NSND Trịnh Thúy Mùi, Chủ tịch Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam cho biết: Trước khi có kịch nói Việt Nam, sân khấu Việt Nam vốn chỉ có những loại hình sân khấu truyền thống: chèo, tuồng, cải lương, rối nước… Riêng thể loại kịch du nhập từ Pháp đến nay đã gần 100 tuổi. Đây là kết quả từ sự “hợp hôn” giữa sân khấu Việt Nam truyền thống và sân khấu phương Tây.
Nửa đầu thế kỷ XX, kịch nói tồn tại với sự tài tử, nghiệp dư ở mọi phương diện như: kịch bản, dàn dựng, diễn xuất, thưởng thức. Sự tài tử này chỉ chấm dứt sau năm 1954, hòa bình lập lại ở miền bắc, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bắt tay ngay vào chuyên nghiệp hóa thể loại kịch Việt Nam, cử người đi học để được đào tạo chính quy. Sân khấu Việt Nam hiện đại vì thế trở thành nền sân khấu được chuyên nghiệp hóa, có thời kỳ phát triển hoàng kim ở thập niên 70, 80 của thế kỷ XX, sân khấu sáng đèn hàng đêm, người xem chật kín rạp.
Tuy nhiên, từ cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, sân khấu Việt nói chung, sân khấu kịch nói riêng đã rơi vào khủng hoảng người xem và bị ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch Covid-19. Trong bối cảnh ấy, hội thảo được tổ chức trong khuôn khổ chuỗi hoạt động kỷ niệm 100 năm sân khấu kịch Việt Nam nhằm ôn lại chặng đường lao động sáng tạo của sân khấu kịch nói Việt Nam, thúc đẩy sự phát triển mới của sân khấu kịch nói sau đại dịch.
Hội thảo đã nhận được gần 20 tham luận cùng nhiều ý kiến đóng góp của các đại biểu tham gia. Các tham luận đều khẳng định nghệ thuật sân khấu kịch Việt Nam tuy ra đời muộn so với thế giới nhưng đã tiếp thu được những tinh hoa, thi pháp mà các nền kịch nhân loại đã tích lũy được. Nghệ thuật kịch Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã phát triển thành nền kịch chuyên nghiệp, hoàn thiện, hiện đại, hữu ích, có tính dân tộc, khoa học và đại chúng; có sự phong phú về đề tài, chủ đề, thể tài với nhiều hình thái sinh động như sân khấu lớn, sân khấu nhỏ, sân khấu nhà nước, sân khấu xã hội hóa…
Bên cạnh đó, nhiều tham luận cũng đã thẳng thắn nêu bật những thách thức đối với vấn đề phát triển kịch nói Việt Nam hôm nay như: hiện trạng thiếu vắng khán giả; hình thái và nội dung cũ kỹ, đặc biệt là thiếu đề tài đương thời của cơ chế thị trường định hướng XHCN, hội nhập quốc tế…
Tổng kết hội thảo, PGS, TS Trần Trí Trắc nêu bật một số vấn đề mang tính giải pháp để sân khấu kịch Việt Nam có thể phát triển vững vàng thời gian tới. Đó là: cần có sự phối hợp giữa Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch với Bộ Giáo dục và Đào tạo để có kế hoạch đào tạo khán giả tiềm năng; đào tạo tác giả, mở trại sáng tác theo hình thức mới hiệu quả hơn; đẩy mạnh giao lưu sân khấu quốc tế, nhất là với các nước theo cơ chế thị trường để học tập, rút kinh nghiệm; đào tạo đạo diễn, diễn viên ở các nước có nền nghệ thuật sân khấu tiên tiến; xây dựng cơ chế đặc thù cho nghệ thuật sân khấu nói chung, kịch nói nói riêng…
Phát biểu chỉ đạo tại hội thảo, Thứ trưởng Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Tạ Quang Đông cho rằng: Thời gian tới, sân khấu kịch nói nói riêng và sân khấu nói chung phải chú trọng áp dụng những kỹ thuật mới không chỉ về công nghệ ánh sáng, âm thanh mà còn là cách thức tiếp cận, dàn dựng để có những tác phẩm mang hơi thở thời đại. Công tác hợp tác quốc tế, phối hợp các đơn vị nghệ thuật nước ngoài cần được đẩy mạnh để tạo cơ hội cọ xát, giao lưu và học hỏi những điểm mới, hoàn thiện hơn kỹ năng sáng tạo nghệ thuật; tăng cường công tác xã hội hóa sân khấu để tập trung được nguồn lực về con người, cơ sở vật chất, kinh phí nhằm đầu tư các tác phẩm sân khấu chất lượng đỉnh cao.
Bộ đã đưa đề án giáo dục học đường vào Chiến lược phát triển văn hóa Việt Nam, Bộ cũng đang lên kế hoạch để triển khai chương trình lưu diễn, phổ biến các tác phẩm nghệ thuật của các đơn vị trong năm 2022. Đây là những nỗ lực nhằm đưa nghệ thuật sân khấu bám sát hơn với thị trường, khán giả…