51 năm Hiệp định Paris:

Đại tá, Đại sứ Hà Văn Lâu và cuộc đấu trí gian khổ

51 năm trước, ngày 27/1/1973, tại Paris, Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam đã được ký kết, sau gần 5 năm (1968-1973) đấu trí quyết liệt trên bàn đàm phán. Hiệp định Paris là một thắng lợi quan trọng của nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, mở đường cho thắng lợi vĩ đại mùa Xuân năm 1975, kết thúc hơn một thế kỷ đô hộ của chủ nghĩa thực dân cũ và mới, đem lại độc lập, tự do và thống nhất đất nước.
0:00 / 0:00
0:00
Đại tá, Đại sứ Hà Văn Lâu là người cẩn thận và rất coi trọng giá trị của tài liệu lưu trữ. (Ảnh: TTXVN)
Đại tá, Đại sứ Hà Văn Lâu là người cẩn thận và rất coi trọng giá trị của tài liệu lưu trữ. (Ảnh: TTXVN)

TTXVN thực hiện hai bài viết “51 năm Hiệp định Paris” điểm lại kết quả của cuộc đấu tranh ngoại giao qua góc nhìn từ tài liệu lưu trữ của Đại tá, Đại sứ Hà Văn Lâu.

Bài 1: Đại tá, Đại sứ Hà Văn Lâu và cuộc đấu trí gian khổ

“Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã kết thúc thắng lợi với trận Điện Biên Phủ lẫy lừng trên chiến trường và Hội nghị Genève 1954 trên bàn đàm phán. Từ hai sự kiện lịch sử đó, Đảng ta đã rút ra một quy luật của cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại Hồ Chí Minh là nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, phải tiến hành đấu tranh trên 3 mặt trận quân sự, chính trị, ngoại giao.

Đấu tranh quân sự và chính trị có tính chất quyết định; ngoại giao là quan trọng và phải phối hợp chặt chẽ với đấu tranh quân sự và chính trị. Cho đến khi tương quan lực lượng trên chiến trường thay đổi có lợi cho ta, đấu tranh ngoại giao phải tích cực và chủ động phục vụ cho chiến trường, đồng thời phải hướng đối phương đi vào giải pháp chính trị bằng đàm phán khi có điều kiện nhằm kết thúc chiến tranh có lợi cho ta.

Đường lối, phương châm trên đã được xác định trong những Nghị quyết của Trung ương Đảng và Bộ Chính trị về cuộc đấu tranh cách mạng của quân và dân ta từ khi Mỹ đưa quân vào xâm lược nước ta đến khi Hiệp định Paris được ký kết tháng 1/1973. Anh Lê Đức Thọ chính là một trong số các đồng chí lãnh đạo của Đảng ta, đã góp phần vào việc xây dựng và việc thực hiện những đường lối, phương châm đó trên chiến trường cũng như trên bàn đàm phán”.

Trên đây là những dòng ký ức trong bài viết “Từ chiến trường đến bàn đàm phán - nhớ về Anh Lê Đức Thọ” của Đại tá, Đại sứ Hà Văn Lâu đưa chúng tôi ngược dòng lịch sử 51 năm trước, về với 4 năm 8 tháng 14 ngày "vừa đánh, vừa đàm", "vừa nhu, vừa cương" trong cuộc đấu trí, đấu bản lĩnh quyết liệt giữa nền ngoại giao non trẻ với nền ngoại giao lão luyện của một siêu cường hàng đầu thế giới, đi đến thắng lợi ngày 27/1/1973: Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết.

Một ngày thu tháng Tám năm 2022, chúng tôi được chứng kiến buổi trao tặng tài liệu lưu trữ đầy xúc động tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia III (Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước, Bộ Nội vụ). Khối tài liệu gồm hơn 1.000 kỷ vật, tài liệu quý giá phản ánh cuộc đời và sự nghiệp hoạt động quân sự, ngoại giao của Đại tá, Đại sứ Hà Văn Lâu và nhiều sự kiện lịch sử quan trọng của đất nước đã được Đại sứ Hà Thị Ngọc Hà, con gái Đại sứ Hà Văn Lâu trao gửi.

Giữ gìn khối tài liệu hơn cả tính mạng

Đại tá, Đại sứ Hà Văn Lâu và cuộc đấu trí gian khổ ảnh 2

Đại sứ Hà Thị Ngọc Hà cho phóng viên xem lại các bức ảnh tư liệu của Đại sứ Hà Văn Lâu. (Ảnh: TTXVN)

Xúc động khi nghĩ lại quá trình hoạt động của ba, Đại sứ Hà Thị Ngọc Hà chia sẻ, cả cuộc đời hoạt động của ông là cho Tổ quốc và nhân dân… “Cuộc đời của ông, từ lúc thành lập nước là cống hiến cho nhà nước, vì thế khối tài liệu đó đi theo chiều dài lịch sử của đất nước... Ông giữ gìn khối tài liệu này hơn cả tính mạng của mình”.

Bà Hà kể, năm 1999, trận đại hồng thủy nhấn chìm cố đô Huế. Vì giữ tài liệu này mà ông Hà Văn Lâu không chạy lũ. Nước dâng lên đến đâu, ông chuyển dần tài liệu lên nơi khô ráo đến đó, cho đến lúc nước ngập ngang người, hai ông bà già đã ngoài 80 phải trèo lên ngồi trên bàn và sau đó được lực lượng cứu hộ đẩy bè vào cứu, đưa ra đê thành Đại Nội.

“Sau này, chúng tôi vẫn nói đùa với ông rằng, ba đi chiến trường, đi hoạt động cách mạng không chết, lại suýt chết vì lũ lụt. Chỉ vì ông giữ đống tài liệu này mà không chịu chạy”, Đại sứ Hà Thị Ngọc Hà kể.

Nhớ về người cha “một đời thanh bạch, chẳng vàng son”, bà Hà tâm sự, ba đi nước ngoài liên tục, rất ít tiếp xúc với ba, nhưng “tôi như có một ‘biệt duyên’ ở trong máu, ba tôi hoạt động chính trị, tôi thấy cuộc đời của mình cũng gắn với chính trị từ nhỏ, nên học chuyên toán, thi đại học là toán kinh tế, nhưng khi ba bảo con phải vào Đại học Ngoại giao, tôi cũng đồng ý. Từ ngoại giao vào sự nghiệp chính trị, say mê nó ăn vào máu của mình, là từ tư chất của ba tôi truyền ra”.

Sống xa ba nhiều, nhưng mỗi câu chuyện của ba về chiến khu Việt Bắc, chuyện đàm phán Hiệp định Genève năm 1954, Hiệp định Paris 1973… đều thấm sâu trong bà. Mỗi sự kiện, mỗi bức ảnh đằng sau nó là cả một “cuộc chiến đấu, cuộc vật lộn”…

Cuộc đấu trí gian khổ

Có kinh nghiệm đàm phán Hiệp định Genève, ông Hà Văn Lâu được chọn đi đàm phán Hiệp định Paris. Ông là Phó Trưởng đoàn đàm phán Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ năm 1968 đến năm 1970.

Đại tá Hà Văn Lâu là người đầu tiên đi tiền trạm để chuẩn bị cho cuộc đàm phán diễn ra tại Paris. Ông cũng là người kiên quyết lập trường chỉ chấp nhận bàn tròn để cả 4 bên gồm Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, Mỹ và Việt Nam Cộng hòa cùng bình đẳng đi vào đàm phán.

Thông qua trung gian của Bộ Ngoại giao Pháp, cuộc tiếp xúc đầu tiên giữa ta và Mỹ diễn ra ngày 10/5/1968. Bên ta có Phó Trưởng đoàn Hà Văn Lâu và cố vấn Nguyễn Minh Vỹ, phía Mỹ có Cyrus Vance và Philip Habib. Hai bên trao đổi về danh sách đoàn và thống nhất ngày họp là 13/5/1968 tại Hội trường Kléber, Paris.

Các cuộc gặp riêng giữa Hà Văn Lâu và Cyrus Vance, Phó đoàn Mỹ là để ta thăm dò ý định của Mỹ. Cả 5 cuộc gặp riêng diễn ra luân phiên tại nhà riêng của mỗi đoàn, ở cấp Phó đoàn từ ngày 26/5 đến 19/8/1968.

Sau này, có cuộc họp riêng của 2 trưởng đoàn, phía ta có Bộ trưởng Xuân Thủy và cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ, phía Mỹ là Harriman và về sau là Kissinger. Ông Hà Văn Lâu tham gia tất cả các cuộc họp riêng của Trưởng đoàn hai bên.

Cuộc gặp thứ nhất diễn ra vào ngày 8/9/1968. Các cuộc gặp sau diễn ra vào ngày 12/9, ngày 15/9, 20/9, 11/10, đến ngày 26/10/1968, 2 bên thỏa thuận được Biên bản chung về việc Mỹ chấm dứt ném bom vô điều kiện và một cuộc họp 4 bên gồm Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền nam Việt Nam, Mỹ và Việt Nam Cộng hòa được tiến hành ở Paris.

Những tài liệu của Đại sứ Hà Văn Lâu cho thấy, cuộc họp riêng cấp Trưởng đoàn cuối cùng trước ngày Mỹ chấm dứt ném bom miền bắc xảy ra vào đêm 30/10/1968. Trong đó, Harriman thông báo ngày giờ Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc đầu buổi tối 31/10/1968 lúc 7 hoặc 8 giờ tối, tức 1 giờ GMT ngày 1/11/1968 và dự kiến cuộc họp 4 bên sẽ không tiến hành trước ngày 6/11/1968.

Bộ trưởng Xuân Thủy đề nghị để đoàn Việt Nam lên gác hội ý, sau khi xem xét lại biên bản, đoàn ta trở lại cuộc họp và tuyên bố chấp nhận. Cuộc họp này kết thúc lúc 3 giờ sáng ngày 31/10/1968.

Trong câu chuyện chia sẻ với phóng viên TTXVN vào năm 2013 - kỷ niệm 40 năm ngày ký Hiệp định Paris, ông Hà Văn Lâu cho biết, chỉ riêng chuyện cái bàn, phía Mỹ đã kéo thành 8 cuộc họp, mất gần 2 tháng. Mỹ yêu sách, kèo nèo quanh mấy cái mặt bàn, chân bàn, không phải về kỹ thuật hình thức, kiểu dáng cái bàn, mà thực chất đây là cuộc đấu tranh lập trường giữa hai bên.

“Tôi cùng phó đoàn của Mỹ bàn với nhau 2 tháng mới thỏa thuận được cái bàn họp bàn tròn 4 bên”, theo Đại sứ Hà Văn Lâu.

Trong hồi ức của Tổng thống Richard Nixon trích từ quyển “No more Vietnams” (Không được có những Việt Nam nữa) ấn hành năm 1985 cũng cho thấy, “Johnson cam kết chấm dứt tất cả các cuộc đánh phá chống Bắc Việt Nam để đổi lấy việc bắt đầu các cuộc thương lượng và một số hiểu biết mơ hồ không tăng cường chiến đấu ở Nam Việt Nam. Trong 2 tháng hội nghị hòa bình ở Paris chẳng có chút tiến bộ nào ngoài việc thỏa thuận với nhau về cái hình của chiếc bàn thương lượng”.

Ông này cũng thừa nhận, “nước Mỹ đã bị chia rẽ một cách cay đắng, Johnson thực sự bị đẩy ra khỏi chức vụ bởi những người chống chiến tranh. Tôi cũng bị hàng nghìn người biểu tình chống chiến tranh quấy rầy trong suốt cuộc vận động bầu cử năm 1968. Trong lễ nhậm chức, chúng tôi không được đi xe trần trong cuộc diễu hành vì hàng trăm nghìn người biểu tình mang cờ Việt cộng đứng hai bên đường và hô ‘Hồ, Hồ, Hồ Chí Minh. Mặt trận dân tộc giải phóng sẽ thắng’”.

Ngày 25/1/1969, cuộc họp Paris 4 bên mới được khai mạc trọng thể.