Cột cờ Lũng Cú - niềm tự hào của nước Việt nơi cực Bắc của Tổ quốc đang tung bay trên bầu trời biên giới. Cột cờ được dựng trên đỉnh núi Rồng trông xa như một ngọn tháp, có hình dáng cột cờ Hà Nội, cao gần 20 m, chân bệ có sáu mặt phù điêu mang nét hoa văn của trống đồng Ðông Sơn, lá cờ đỏ sao vàng rực rỡ rộng 54 m tượng trưng cho 54 dân tộc anh em tung bay phấp phới, mầu đỏ mang ngọn lửa bất diệt của con lạc cháu rồng, in bóng xuống mặt hồ Lô Lô xanh biếc. Lưng chừng núi Rồng có hang Sì Mần Khan với những nhũ đá nguyên sơ, tỏa hơi đá mát lành...
Xã Lũng Cú bao gồm chín bản: Lô Lô Chải, Seo Lủng, Tả Giao Khâu, Cẳn Tằng, Thèn Ván, Thèn Pả, Sì Mần Khan, Sán Chồ, Sán Sà Phìn, tất cả ở độ cao trung bình từ 1.600 đến 1.800 m so với mặt nước biển. Trong đó, bản Séo Lủng là bản giáp biên nằm cao nhất trên bản đồ. Tên gọi Lũng Cú có nhiều cách lý giải; có người nói đó đúng ra phải gọi là Long Cư, có nghĩa là nơi rồng ở, nên đỉnh núi cao nhất của vùng đất Lũng Cú được đặt tên là núi Rồng. Người lại nói Lũng Cú là cách đọc chệch của từ Lũng Cừu, theo ngôn ngữ của người Mông thì có nghĩa là Lũng Ngô, bởi cánh đồng Thèn Pả trồng nhiều ngô. Lại có giả thiết Lũng Cú là tên người đứng đầu một dòng họ dân tộc Lô Lô, có công khẩn hoang, gìn giữ và phát triển vùng đất. Nhưng nhiều người cho rằng: Lũng Cú có lẽ bắt đầu từ chữ Long Cổ, nghĩa là trống rồng. Có hai truyền thuyết về chiếc trống của vua gắn bó với vùng đất cực bắc này. Trong cộng đồng các dân tộc đang sinh sống tại Lũng Cú hiện nay thì chỉ có người Lô Lô là sử dụng thành thạo trống đồng. Trống đồng của đồng bào Lô Lô có nguồn gốc từ trống đồng Ðông Sơn, như vậy có thể nói họ đã được ban tặng và hiện còn bảo lưu được những hiện vật lịch sử, văn hóa quý giá tiêu biểu rực rỡ của thời Hùng Vương.
Bên cạnh đó, sử sách còn kể lại, vào thời Tây Sơn, Hoàng đế Quang Trung đã cho đặt ở nơi biên ải hiểm trở này một chiếc trống lớn, để khi biên cương có giặc thì nổi trống báo hiệu cho quân triều đình đến ứng cứu. Trống đồng được chôn bán âm bán dương, nghĩa là vừa nằm trong lòng đất mẹ, vừa hướng về trời cha, có như vậy thì trống mới có hồn vía, tiếng trống mới trầm hùng, oai dũng. Vị trí đặt trống của nhà vua là trạm biên phòng tiền tiêu Lũng Cú bây giờ...
Cụ Lan Chia, già làng người Lô Lô kể cho chúng tôi biết rằng, năm 1991, được sự chỉ đạo của chính quyền các cấp, nhân dân các dân tộc Lũng Cú đã tỏa đi khắp các vùng rừng, lên những mỏm núi cao nhất, xa nhất để tìm cho được một cây Pơ mu cao gần 13 m, thân thẳng đứng như mũi tên hướng lên trời kiêu dũng. Gần hai mươi trai tráng sức vóc như con trâu mộng cưa cây mất hai ngày rồi cũng chính những đôi vai ấy đã nâng bổng thân cây nặng hàng tạ để đưa lên đỉnh núi Rồng làm cột cờ bằng gỗ đầu tiên.
Từ lưng chừng núi Rồng, phải vượt qua hơn 200 bậc thang đá cho để đến cột cờ. Từ trên cao nhìn xuống, những bản làng xinh xắn, những ô ruộng bậc thang đan xen, tất cả ngời lên một sức sống bền bỉ, trường tồn nơi biển đá. Ðây cũng là nơi dòng Nho Quế uốn khúc đổ vào đất Việt, dòng sông lúc này chỉ còn như sợi chỉ mong manh. Ta có thể đi trên sông Nho Quế bằng thuyền độc mộc, vừa ngắm cảnh vừa nghe người lái đò kể truyền thuyết bí ẩn vùng núi cao. Mặt nước ngày ngày soi bóng cờ bay, hắt lên không gian một quầng sáng huyền ảo. Khi nhìn lên, ta sẽ thấy trước mắt mình lồng lộng một sắc đỏ diệu kỳ trên nền xanh bát ngát. Ðó chính là lá cờ cuộn bay uy nghi, tất cả đã lý giải sức tồn tại mãnh liệt đến kỳ diệu của dân tộc Việt Nam bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước.
Tại các bản nhỏ dưới chân núi Rồng, ta sẽ được gặp những người già, những thanh niên trai tráng người Lô Lô, Mông, Dao trong bốn tháng ròng rã từ tháng 8 đến tháng 12 năm 2000 đã cõng lên đỉnh đồi cao 1.460 m từng bao cát, từng tảng đá, từng can nước. Những chiếc quẩy tấu thô mộc này cùng với bước chân cần mẫn của họ đã kéo lên đỉnh Rồng hai tấn thép, 8.000 viên gạch, gần 40 m3 đá, 30 m3 cát để xây lên cột cờ vạn thuở. Chỉ có ai đã từng leo dốc, vượt đồi với hàng nghìn bước chân mỏi rã rời để lên đỉnh núi Rồng, mới thấm thía hết công sức, tiền bạc mà nhân dân cả nước đã góp phần xây lên cột cờ tột bắc. Người dân Lũng Cú hồn hậu, sức vóc dẻo dai ấy đã đi qua cái đói, vượt qua cái rét và bệnh tật hoành hành để bám trụ trên mảnh đất biên viễn quê nhà. Tổ quốc đặt lên vai họ xứ mệnh đứng chân tại vùng đất này nên tất thảy đều kiên gan bám trụ, không ai muốn rời bản mà đi. Trưởng bản Séo Lủng bảo, được ở đất quê mình dẫu có bữa no bữa đói vẫn còn hơn là ly hương nơi xứ người. Vâng, chính những con người nhỏ bé đó đã từng đi vào trang văn của nhà văn Nguyễn Tuân khi ông đến thăm Lũng Cú rằng: gặp được những người đồng chí như họ, ta thấy núi non mình tốt lành, đẹp khỏe.
Ðến với Lũng Cú, Ðồng Văn là đến với một vùng biên cương còn nhiều nhọc nhằn, gian khó những cũng rất đỗi anh hùng. Cực bắc như một vầng trán kiêu hãnh trên bản đồ Việt Nam. Khách hành hương từ mọi miền về đây, trong hành trang mang theo nên có thêm nắm đất quê hương mình để hòa vào đất biên cương. Chút phù sa đất Mũi, nắm cát vàng biển Ðông, vốc đất lấy từ thành cổ còn nồng mùi máu, hay nắm đất đỏ bazan bạt ngàn Tây Nguyên... sẽ làm ấm lòng người đang xây dựng và gìn giữ đất quê hương nơi biên ải.