Chật vật có con sau biến chứng lao

NDO - Sau khi điều trị phẫu thuật mổ ổ cặn màng phổi do lao màng phổi, suy giáp sau điều trị, người phụ nữ bị vô sinh do dính buồng tử cung, rối loạn phóng noãn khiến cho hành trình "săn con" đầy khó khăn. 
0:00 / 0:00
0:00
Bác sĩ Lệ Thủy đang thăm khám cho người bệnh.
Bác sĩ Lệ Thủy đang thăm khám cho người bệnh.

Kết hôn 2 năm, vợ chồng chị Thương uống nhiều thực phẩm chứng năng, thuốc Đông Tây y nhưng vẫn không có thai. Cuối năm 2021, họ đến Trung tâm Hỗ trợ sinh sản, Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh Hà Nội (IVF Tâm Anh) điều trị hiếm muộn.

Kết quả khám sức khỏe cho thấy, người chồng sức khỏe bình thường nhưng chị Thương rối loạn kinh nguyệt, kết quả chụp X-quang tử cung vòi trứng cho thấy buồng tử cung ngấm thuốc không đều, bờ tử cung nham nhở. Trước đó 8 tháng, chị có tiền sử mổ ổ cặn màng phổi do lao màng phổi, suy giáp sau điều trị. Bác sĩ kết luận chị Thương vô sinh do dính buồng tử cung, rối loạn phóng noãn sau mắc bệnh lao.

Thạc sĩ, bác sĩ Nguyễn Lệ Thủy, Trung tâm IVF Tâm Anh cho biết, bệnh lao chủ yếu được biết đến với các biểu hiện ở đường hô hấp. Tuy nhiên, thực tế vi khuẩn lao Mycobacterium tuberculosis có thể lây lan qua đường máu, hạch bạch huyết, từ phổi đến nhiều bộ phận khác trong cơ thể, bao gồm cả hệ thống sinh sản. Một số trường hợp lao sinh dục còn lây truyền qua đường tình dục.

Lao sinh dục nữ (FGTB) là trường hợp ít gặp, chỉ chiếm 5% trong số tất cả các trường hợp nhiễm trùng vùng chậu ở phụ nữ và 10% các trường hợp lao phổi. Đây cũng là nguyên nhân tiềm ẩn gây ra thất bại thụ tinh ống nghiệm (IVF) nhiều lần.

Vi khuẩn lao có thể gây viêm nhiễm và tạo sẹo dính ở ống dẫn trứng (90%), nội mạc tử cung (70%), buồng trứng (25%), ít gặp hơn ở cổ tử cung, âm đạo, âm hộ. Ban đầu tổn thương không rõ ràng, diễn biến âm ỉ, sau đó mới hình thành các vết loét, hoại tử hoặc xuất huyết rồi tạo sẹo, gây biến dạng cơ quan sinh sản, ảnh hưởng khả năng thụ thai.

Trường hợp chị Thương, thành tử cung ở hai mặt trước và sau dính lại với nhau khiến quá trình tái tạo lớp nội mạc chức năng sau khi kết thúc chu kỳ kinh nguyệt gặp khó khăn, cản trở quá trình làm tổ của trứng đã thụ tinh, gây vô sinh.

Nếu có thai, buồng tử cung bị dính cũng mất đi độ đàn hồi tự nhiên, thể tích buồng tử cung giảm, không đủ không gian đáp ứng sự phát triển lớn dần của thai nhi. Theo bác sĩ Lệ Thủy, tình trạng vô sinh do dính buồng tử cung chiếm khoảng 5% tổng số trường hợp vô sinh nữ.

Điều trị thuốc kháng lao có thể loại bỏ nhiễm trùng, song không thể giúp phục hồi các tổn thương sẹo đã hình thành tại tử cung, buồng trứng. Ngoài ra, một số thuốc chống lao có thể gây suy giáp, làm giảm khả năng sản xuất hormone tuyến giáp. Lúc này, quá trình rụng trứng bị cản trở, gây rối loạn kinh nguyệt.

Nồng độ hormone sinh sản sụt giảm, kèm theo tổn thương sẵn có tại niêm mạc tử cung khiến niêm mạc tử cung không đạt đủ độ dày thích hợp để giữ trứng đã thụ tinh trong cơ thể, tăng nguy cơ sảy thai. Do đó khả năng sinh sản ở người bệnh FGTB thấp, chỉ khoảng 19%.

Việc điều trị tùy từng tình trạng, người bệnh có thể dùng thuốc hoặc phẫu thuật nếu có tổn thương tạo sẹo ảnh hưởng khả năng sinh sản. Như chị Thương, để mang thai và sinh con thuận lợi, người bệnh cần được phẫu thuật nội soi tách dính buồng tử cung. Tỷ lệ thành công của phương pháp này khoảng 60-70%.

Theo bác sĩ Thủy, khả năng có thai tự nhiên sau phẫu thuật tách dính không cao. Nếu sử dụng phương pháp hỗ trợ sinh sản như thụ tinh nhân tạo (IUI) hay thụ tinh ống nghiệm (IVF), tỷ lệ này đạt hơn 65%.

Tháng 3/2022, vợ chồng chị Thương trở lại IVF Tâm Anh phẫu thuật nội soi tách dính buồng tử cung thành công. Chị Thương được dùng thuốc theo chỉ định của bác sĩ nội tiết để cân bằng lượng hormone trong cơ thể. Cố gắng mang thai tự nhiên suốt 1 năm không thành và 3 lần IUI thất bại, tháng 12/2023, họ quyết định làm IVF.

Chị Thương được dùng thuốc kích trứng theo phác đồ cá thể hóa, thu được lượng noãn trưởng thành tối ưu nhưng vẫn bảo đảm sức khỏe tổng thể. Bác sĩ chọc hút noãn, tạo được 7 phôi ngày 3. Số phôi này tiếp tục được nuôi dưỡng trong tủ cấy time-lapse tích hợp AI, thu được 4 phôi nang (phôi ngày 5) chất lượng tốt.

Sau quá trình chuẩn bị niêm mạc, tháng 12/2023, chị Thương được chuyển 1 phôi vào buồng tử cung, những phôi thai khác được trữ đông. Từng ngày mong ngóng kết quả đậu thai nhưng tin vui không đến khiến chị suy sụp.

Tháng 2/2024, chị tiếp tục chuyển phôi sau rã đông, may mắn đậu thai ngay. Cách đây 1 tháng, chị chuyển dạ, sinh mổ bé trai chào đời khỏe mạnh ở tuần thai 38. “Giây phút được da kề da với con, tôi bật khóc vì vỡ òa hạnh phúc”, chị Thương kể.

Chật vật có con sau biến chứng lao ảnh 1
Bác sĩ IVF Tâm Anh đang chuyển phôi vào buồng tử cung người bệnh.

Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), năm 2023, Việt Nam xếp thứ 11 trong 30 nước có gánh nặng bệnh lao và lao kháng thuốc cao nhất thế giới. Nhiều người mắc bệnh chưa được phát hiện, trở thành nguồn lây nhiễm trong cộng đồng.

Bác sĩ Thủy cho biết, lao sinh dục nữ gây ra các biểu hiện tương tự bệnh viêm vùng chậu mạn tính (PID) như rối loạn kinh nguyệt, đau bụng dưới, khí hư âm đạo… Vì thế dễ gây nhầm lẫn với các vấn đề nội tiết, viêm nhiễm phụ khoa, bệnh lây truyền qua đường tình dục, thậm chí ung thư. Một số trường hợp có thể không có triệu chứng khiến việc chẩn đoán khó khăn.

Hiện các kỹ thuật hiện đại như nuôi cấy phôi nang, sàng lọc di truyền phôi tiền làm tổ (PGT), vi phẫu tìm tinh trùng (micro-TESE), xét nghiệm cửa sổ làm tổ (ERA Test), bơm huyết tương giàu tiểu cầu tự thân (PRP)… có thể giúp nam nữ vô sinh hiếm muộn sau mắc bệnh lao tăng khả năng thụ thai và sinh con khỏe mạnh.

Để phòng bệnh lao sinh dục, mọi người cần tránh tiếp xúc với nguồn lây nhiễm. Nhất là khi trong nhà có người mắc bệnh lao, cần sinh hoạt và cách ly đúng mực: không dùng chung bát đũa, cốc uống nước, quần áo, chăn gối, chậu tắm rửa… với người bệnh. Xây dựng chế độ dinh dưỡng và tập luyện thể thao khoa học, tránh uống bia rượu hay sử dụng chất kích thích, tiêm vaccine đầy đủ, đúng lịch cũng là cách tăng cường sức khỏe tổng thể, phòng ngừa bệnh hiệu quả.