Cụ thể, kiểm nghiệm hơn 30 mẫu áo ngực Trung Quốc thuộc ba nhãn hiệu Menganaeroi, Qiuaziwanli và Magneric có túi dầu khoáng, Viện Hóa học phát hiện được hai chất trong nhóm polycyclic aromatic hydrocarbon (PAH) là Anthracene và Pyrene.
Kết quả phân tích hàm sắc ký khí phổi cho thấy hàm lượng Pyrene trong các túi dầu khoáng từ 0,140 đến 0,192 mg/kg. Hàm lượng Anthracene là từ 0,068 đến 0,082 mg/kg.
Trong khi đó, ngưỡng an toàn mà Cơ quan quản lý và dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) cho phép là 25 mg/kg.
Nghiên cứu lần này cũng phát hiện ra một loại áo nịt ngực có nhãn hiệu BAO QING có chứa dung dịch dạng sệt có thành phần chính là kẽm stearate, chiếm trên 50% tổng hàm lượng của dịch.
Kẽm stearate vốn là chất độn dùng trong nhiều lĩnh vực công nghiệp cũng như y tế. Cụ thể nó là chất ổn định nhiệt, hấp thụ tia cực tím (UV) trong nhựa tổng hợp PVC. Nó còn được dùng làm chất trợ màu và trợ gia công cho các loại nhựa, dùng làm chất chống dính trong ngành cao su. Ngoài ra, nó còn là chất làm mờ trong ngành sơn và mực in, phụ gia chống thấm trong xây dựng. Đặc biệt, kẽm stearate cũng được dùng khá nhiều trong mỹ phẩm và phụ gia cho các loại kem dưỡng da.
Đến thời điểm này vẫn chưa xác định được dung môi trộn với bột kẽm stearate là dung môi gì. Tuy nhiên nhóm phân tích không tìm thấy độc chất PAH trong dịch trắng đục này.
TS Vũ Đức Lợi cho rằng, kết quả phân tích trên vẫn chưa nói lên được nhiều điều, để tìm ra nguyên nhân gây dị ứng cho người sử dụng cần tiến hành nhiều biện pháp khác nhau chứ không thể dừng ở các bước phân tích hóa học. “Cơ quan y tế cần tổ chức khám cho những người bị dị ứng do đeo áo nịt ngực có chứa dịch lỏng, hoặc cần kiểm tra thành phần hóa học của các loại vải và mút dùng để may áo nịt ngực” – TS Lợi nói.