Nông trường Sông Hậu được thành lập và hoạt động từ năm 1979, trở thành doanh nghiệp nhà nước từ năm 1992, là niềm tự hào của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Hậu Giang và Cần Thơ, là minh chứng của ý Đảng lòng dân, thể hiện ý chí vượt khó, tinh thần tự lực tự cường, dám nghĩ dám làm, đi vào thực tiễn nông nghiệp, nông thôn, nông dân, đưa toàn bộ diện tích gần 7.000 ha đất hoang hóa sản xuất lúa một vụ bấp bênh, với năng suất 700-800 kg/ha lên sản xuất lúa hai vụ, áp dụng tiến bộ khoa học-kỹ thuật mới vào sản xuất làm tăng năng suất bình quân lên 10 tấn/ha/năm.
Mô hình hoạt động của Nông trường Sông Hậu phát huy tác dụng, từ phát triển kinh tế hộ, hỗ trợ kinh tế hợp tác phát triển, liên kết kinh tế trang trại, liên kết các doanh nghiệp vừa và nhỏ, từ đó đã phát huy tác dụng từ khâu trồng trọt đến sản xuất và tiêu thụ hàng hóa giúp nông trường viên yên tâm sản xuất. Ngoài phát triển kinh tế, Nông trường Sông Hậu còn là điển hình trong việc xây dựng hạ tầng phúc lợi xã hội, như trường học, trạm y tế, giao thông nông thôn phục vụ khoảng 15 nghìn người dân trên địa bàn. Nông trường Sông Hậu hai lần được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động (năm 1985 và năm 1999) và hai giám đốc nông trường lần lượt đều được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới. Nông trường đang xúc tiến chuyển đổi thành Công ty nông nghiệp Sông Hậu theo mô hình công ty TNHH một thành viên 100% vốn Nhà nước.
Ngày 7-5-2007, qua xem xét báo cáo kết quả thanh tra Nông trường Sông Hậu, UBND thành phố Cần Thơ kết luận, Nông trường Sông Hậu có những thiếu sót, sai phạm chủ yếu như sau: Trên lĩnh vực quản lý, sử dụng đất, nông trường mua đất bên ngoài để cho bảy cá nhân đứng tên. Về thực hiện chủ trương giao đất, định mức giao khoán đất không quá 1,5 ha/hộ, nhưng nông trường đã giao khoán vượt định mức quy định, việc giao khoán không có hợp đồng, không có thời gian quy định theo Nghị định số 01/CP ngày 4-1-1995 của Chính phủ. Nông trường không tuân thủ việc thực hiện nguồn thu quỹ theo Quyết định số 99/TTg (mức thu cao hơn mức thu của các địa bàn lân cận), thu và sử dụng nguồn thu đất mượn, đất quỹ, thu và sử dụng nguồn thu thế chấp và bảo hiểm rủi ro hợp đồng, thu và sử dụng nguồn thu khuyến học, thu khấu hao xây dựng cơ bản đến năm 2005 lớn hơn nguyên giá tài sản cố định. Về công nợ phải thu, phải trả và sổ sách chứng từ, nông trường quản lý thu hồi tạm ứng chưa chặt chẽ, số công nợ phải thu, khó đòi cao, nhiều cán bộ quản lý chiếm dụng tiền bán hàng. Tổng số nợ nông trường phải trả ngân hàng tính đến ngày 31-3-2006 là hơn 261 tỷ đồng(...).
Những sai phạm nêu trên, trách nhiệm thuộc về Giám đốc nông trường, các Phó Giám đốc, Kế toán trưởng, Ban Chấp hành Công đoàn Nông trường, Ban Công tác chính trị, Trưởng phòng Quản lý đất đai, Trưởng ngành sản xuất, Trưởng ngành tổng hợp và các Trưởng khu, Trưởng vùng qua các thời kỳ. Có tới bảy cán bộ của nông trường chịu trách nhiệm thu hồi và thanh lý các hợp đồng bán hàng, nếu cấu thành tội phạm thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Xử lý nghiêm đối với những cá nhân lợi dụng nhiệm vụ, quyền hạn để trục lợi, tham ô tài sản công là đương nhiên. Để có những đánh giá đúng mức đối với một mô hình kinh tế có nhiều nét đặc thù như Nông trường Sông Hậu, một số vấn đề cần xem xét có lý, có tình theo quá trình hình thành và phát triển của nông trường. Đó là quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước và nội dung thỏa thuận giữa nông trường với nông trường viên thể hiện trong cơ chế khoán và mức khoán; phân tích rõ những khoản nợ của nông trường, cùng với khả năng tự chi trả. Từ khi thành lập đến nay, nông trường không được Nhà nước hỗ trợ về ngân sách, mọi hoạt động đầu tư từ nhỏ đến lớn đều dựa vào tiền vay ngân hàng, cho nên những khoản thu theo thỏa thuận giữa nông trường với nông trường viên thường cao hơn quy định nhằm để bù đắp chi phí. Mặt khác, nông trường lại bao cấp quá lớn về xây dựng trường, tiền học phí cho con em nông trường viên, xây dựng trạm y tế, làm đường giao thông, mà lẽ ra những khoản này thuộc về chính sách xã hội, chính quyền địa phương phải đảm trách, nên dù các hộ nông trường viên phải đóng góp cao nhưng vẫn không cân đối đủ.
Quá tải những khoản chi, khoản đầu tư dài hạn đã khiến Nông trường Sông Hậu nợ các tổ chức tín dụng với số tiền lớn: tiền bồi hoàn thành quả lao động để hình thành tài sản cố định (đất đai) từ năm 1993 để có 7.000 ha đất liền canh, liền cư, với lãi suất từ 25 đến 30%/năm; chi phí đầu tư xây dựng hệ thống thủy lợi, đê bao, đường giao thông, đường điện, tiền xây dựng cơ sở hạ tầng phúc lợi xã hội, như trường học, trạm y tế; tiền đầu tư dài hạn cho việc trồng cây xoài, bạch đàn, xây dựng mô hình rau màu, ao cá, đầu tư cải tạo đồng ruộng.
Cũng do nông trường là mô hình đầu tư sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao phải chấp nhận lỗ những năm đầu do chi phí nghiên cứu khoa học, đòi hỏi thời gian thu hồi vốn dài, nhưng vốn đầu tư gần như 100% là vốn vay, cho nên thời gian đầu không thể bù được chi phí lãi vay. Càng về sau này, quy mô sản xuất, kinh doanh của nông trường được mở rộng từ sản xuất, chế biến đến hoạt động xuất, nhập khẩu trực tiếp, với khá nhiều đầu mối, khiến Ban Giám đốc Nông trường quá tải về năng lực lãnh đạo, điều hành, trong lúc đội ngũ cán bộ quản lý vừa thiếu, vừa không đáp ứng được yêu cầu, đã ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả kinh doanh của hầu hết các phân xưởng, xí nghiệp, công ty thành viên. Rủi ro trong xuất khẩu gạo càng khiến tình hình tài chính của nông trường khó khăn hơn.
Giám đốc Nông trường Sông Hậu Trần Ngọc Sương cho biết, vấn đề tài chính của nông trường sẽ khác đi bởi nếu đánh giá lại tài sản, cây trồng thì giá trị thực sẽ cao hơn nhiều so với trên sổ sách. Số tiền nông trường dư nợ tại ngân hàng không lớn so với tài sản hiện có của doanh nghiệp, tính đến 30-6-2007, tổng cộng tài sản hiện có của nông trường là 347 tỷ đồng, tổng cộng nợ phải trả là 231 tỷ đồng, trong đó Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Cần Thơ đánh giá mại bản số nợ quá hạn 66,640 tỷ đồng, căng thẳng nhất hiện nay vẫn là khoản nợ quá hạn hơn 58,8 tỷ đồng tại Ngân hàng Công thương Cần Thơ. Nông trường thanh toán nợ cho các tổ chức tín dụng dựa trên các nguồn sau: Thứ nhất, nông trường được Nhà nước hoàn trả 42,6 tỷ đồng tiền bàn giao cơ sở hạ tầng trên địa bàn nông trường về địa phương quản lý; thứ hai là, việc nông trường thắng kiện các tranh chấp hợp đồng, đang thi hành án, khả năng thu được từ 25 đến 27 tỷ đồng; thứ ba, bán bớt cổ phần do nông trường đang nắm giữ ở các công ty cổ phần của nông trường, thu khoảng 30 tỷ đồng. Đó là chưa kể nguồn thu từ 150.000 cây xoài và hàng triệu cây bạch đàn, mỗi năm cũng thu về từ 9 đến 10 tỷ đồng và phần chia cổ tức của nông trường từ bảy công ty cổ phần. Đầu tháng 8-2007, ông Phạm Thanh Quang, Tổng giám đốc Công ty mua bán nợ (Bộ Tài chính) đã lên phương án mua lại toàn bộ phần nợ quá hạn 58,8 tỷ đồng của Nông trường Sông Hậu tại Ngân hàng Công thương Cần Thơ, từ đó cơ cấu lại các khoản nợ, thực hiện chuyển nợ, giãn nợ và đầu tư thêm vốn vào những công ty cổ phần của nông trường, từ đó giúp nông trường vượt qua bế tắc về tài chính trong giai đoạn hiện tại.
Phó Chủ tịch UBND thành phố Cần Thơ Nguyễn Thanh Sơn cho biết: "Quan điểm của UBND thành phố Cần Thơ về xử lý, củng cố Nông trường Sông Hậu là có lý và có tình, tiếp đó là củng cố nông trường cho mạnh lên và lập đề án chuyển đổi thành Công ty nông nghiệp Sông Hậu".
Mô ình Nông trường Sông Hậu là điểm sáng nhiều năm về sản xuất, kinh doanh tổng hợp của cả nước, chăm lo toàn diện đời sống vật chất và tinh thần của người lao động. Thế nhưng, trong quá trình nông trường vươn ra làm ăn lớn đã bộc lộ những khuyết điểm và sai sót cần phải được uốn nắn và củng cố, giúp nông trường chuyển đổi theo Luật Doanh nghiệp, xem xét tính chất đặc thù của nông trường để có những cơ chế thông thoáng. Công khai và minh bạch về sản xuất, kinh doanh của Nông trường Sông Hậu là hết sức cần thiết, xử lý nghiêm minh những cá nhân sai phạm, củng cố và mở hướng làm ăn cho nông trường, vì lợi ích của hơn hai nghìn hộ nông trường viên, đó là mục tiêu cao nhất. Cần rút kinh nghiệm, phê bình đối với những cơ quan chức năng của TP Cần Thơ, trực tiếp là Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, trong thời gian dài đã buông lỏng công tác kiểm tra, giám sát một đơn vị kinh tế quốc doanh có bề dày thành tích, để những điều nên tránh trở thành chuyện đã rồi.