Thay mặt Nhóm nghiên cứu, Tiến sĩ Trần Toàn Thắng, Trưởng Ban Quốc tế Viện Chiến lược phát triển, nêu bật những nét chính của báo cáo.
Đó là doanh nghiệp dịch vụ chiếm ưu thế về số lượng trong VPE500, đặc biệt là trong nhóm 11 doanh nghiệp lớn nhất. Trong đó, ngành tài chính, ngân hàng, bảo hiểm chiếm ưu thế nhất, tiếp theo là ngành thương mại.
Doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến chế tạo trong danh sách VPE500 có biến động khá lớn, có thời điểm chiếm 49% trong danh sách VPE500 (năm 2000) nhưng thứ hạng trong bảng danh sách không cao.
Ngược lại, nhóm doanh nghiệp hoạt động trong ngành bất động sản và xây dựng chiếm tỷ lệ khá cao trong danh sách VPE500 nhưng giảm nhanh cả về số lượng và vị trí do gặp nhiều khó khăn trong giai đoạn Covid-19.
Về kết quả hoạt động của các doanh nghiệp tư nhân lớn nhất Việt Nam, Tiến sĩ Trần Toàn Thắng cho biết, đại dịch đã làm giảm quy mô lao động của doanh nghiệp với mức độ ảnh hưởng đối với doanh nghiệp nhỏ bị tác động nhiều hơn so với doanh nghiệp lớn.
Trong hai năm đại dịch bùng phát, những doanh nghiệp có sự sụt giảm lớn về quy mô thuộc về nhóm giải trí, xây dựng, dịch vụ lưu trú ăn uống. Trong khi đó, nhóm ngành có tăng trưởng khá tốt là điện, y tế, vận tải, kho bãi.
Top 11 doanh nghiệp đứng đầu danh VPE500-Báo cáo 2023.
Phát biểu tại hội thảo, ông Florian Constatin Feyerabend, Trưởng đại diện Viện Konrad-Adenauer-Stiftung (KAS) Việt Nam, cho biết: Dấu ấn của doanh nghiệp tư nhân trong bức tranh kinh tế Việt Nam ngày càng rõ nét. Trong nền kinh tế toàn cầu đầy biến động hiện nay, khu vực tư nhân đã và đang góp phần duy trì nền kinh tế Việt Nam, tạo ra 57,8% doanh thu thuần của các doanh nghiệp tính đến cuối năm 2021.
Trong khu vực tư nhân, các doanh nghiệp lớn nhất trong nước có thể được coi là những người dẫn đầu thị trường và có ảnh hưởng đến nền kinh tế. Hiệu quả hoạt động của những doanh nghiệp này phản ánh sức khỏe của toàn bộ nền kinh tế. Trên thế giới, việc sử dụng chỉ số của các doanh nghiệp lớn để đại diện cho hiệu quả hoạt động của một ngành và thể hiện sức khỏe của nền kinh tế khá phổ biến.
Bằng cách phát triển VPE500, KAS và VIDS nhằm mục đích cung cấp thêm một chỉ số hiệu quả cho quản lý kinh tế vĩ mô tại Việt Nam. Một câu hỏi đặt ra là VPE500 sau Covid như thế nào, liệu các doanh nghiệp này có còn là trụ cột của nền kinh tế hay không?.
“Tôi tin rằng việc đánh giá tác động, sự phục hồi và tính năng động của các doanh nghiệp lớn trong nghiên cứu này sẽ giúp trả lời câu hỏi này”, ông Florian Constatin Feyerabend nói.
Báo cáo VPE500-2023 cho thấy: Mặc dù doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam đã không ngừng lớn mạnh, nhưng hiện nay chưa có nhiều doanh nghiệp tư nhân lớn, đạt được tầm cỡ thế giới. Các thương hiệu Việt Nam vẫn có giá trị thấp hơn các thương hiệu của nhiều quốc gia Đông Nam Á.
Tại thời điểm 31/12/2021, cả nước có 694,200 doanh nghiệp tư nhân trong nước, chiếm 96,6% tổng số doanh nghiệp đang hoạt động; thu hút 58,1% số lao động, chiếm 59,3% tài sản và tạo ra 57,8% doanh thu thuần của khối doanh nghiệp.
Nhưng chỉ có 0,22% số doanh nghiệp có quy mô từ 500 lao động trở lên, thấp hơn tỷ lệ chung 0,52% cũng như 8,29% của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và 19,52% của doanh nghiệp nhà nước (số liệu đến cuối năm 2021).