Kỷ niệm 65 năm Ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam, 20 năm Ngày hội quốc phòng toàn dân

Các đơn vị Cứu quốc quân

ND - Ðến năm 1941, nhiệm vụ đánh đuổi Pháp-Nhật, cứu nước nhà, giành lại nền độc lập cho dân tộc càng trở nên cấp thiết. Với tư cách là đại biểu Quốc tế cộng sản, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung ương lần thứ VIII ở Pác Bó (Hà Quảng, Cao Bằng) vào tháng 5-1941.

Hội nghị đã phát triển và hoàn chỉnh sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược được đề ra từ các Hội nghị Trung ương VI (11-1939) và VII (11-1940), khẳng định nhiệm vụ chủ yếu trước mắt là đánh Pháp, đuổi Nhật, giải phóng dân tộc. Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh); đổi tên các tổ chức quần chúng yêu nước chống đế quốc trước đây thành các hội cứu quốc và ra Nghị định "Ðiều lệ của Việt Nam tiểu tổ du kích cứu quốc", một tổ chức quân sự rộng rãi của quần chúng để tiến hành chiến tranh du kích cho phù hợp với nhiệm vụ cứu nước mới. Ðối với khu căn cứ cách mạng Bắc Sơn đang có Ðội du kích Bắc Sơn hoạt động, Hội nghị quyết định giao cho Ban Thường vụ Trung ương Ðảng (gồm đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí thư; các đồng chí Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt) trực tiếp chỉ đạo việc duy trì và phát triển lực lượng du kích Bắc Sơn.

Chấp hành Nghị quyết Hội nghị Trung ương VIII, việc xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng Bắc Sơn có bước phát triển mới. Tháng 6-1941, đoàn cán bộ cao cấp của Ðảng cùng một số cán bộ quân sự tăng cường về khu căn cứ cách mạng Bắc Sơn. Tại đây, thay mặt Trung ương Ðảng, đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí thư của Ðảng trực tiếp phổ biến Nghị quyết Hội nghị Trung ương VIII cho cán bộ, chiến sĩ Ðội du kích Bắc Sơn. Nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng đối với các đơn vị vũ trang cách mạng; đồng thời để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương VIII, Ðội du kích Bắc Sơn vinh dự được đổi tên thành Ðội Cứu quốc quân Bắc Sơn. Ðây là trung đội Cứu quốc quân 1(1). Ban chỉ huy trung đội gồm: Phùng Chí Kiên, Ủy viên Trung ương Ðảng - Chỉ huy trưởng; Lương Văn Tri - Chính trị viên, đặt dưới sự lãnh đạo của Ban Thường vụ Trung ương Ðảng. Các đồng chí Phùng Chí Kiên, Bế Sơn Cương, Mã Thành Kính, Ðặng Văn Cáp, Trần Văn Phấn, từng học quân sự ở nước ngoài, hoặc do Ðảng đào tạo trong nước, cùng một số vũ khí được bổ sung cho Trung đội Cứu quốc quân 1. Trung đội gồm có 37 người (kể cả số cán bộ Trung ương mới bổ sung), được biên chế thành ba tiểu đội, trang bị 15 súng trường và súng kíp, còn lại chủ yếu là dao găm và giáo mác.

Lo sợ trước sự lớn mạnh của phong trào cách mạng Bắc Sơn, thực dân Pháp huy động mật thám và tay sai dò la nắm tình hình. Ðược bọn tay sai mật báo, tháng 7-1941, thực dân Pháp tập trung bốn nghìn quân, gồm cả lính Pháp, lính lê dương, lính khố đỏ, khố xanh cùng mật thám, cường hào, lính dõng mở cuộc tiến công từ ba hướng vào khu căn cứ cách mạng Bắc Sơn: Lạng Sơn xuống, Thái Nguyên lên và Bắc Giang sang, nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não phong trào kháng chiến của nhân dân ta, tiêu diệt lực lượng Cứu quốc quân, dập tắt bằng được phong trào cách mạng Bắc Sơn. Cán bộ, chiến sĩ Cứu quốc quân đã chiến đấu dũng cảm và bảo vệ các đồng chí Thường vụ Trung ương Ðảng về miền xuôi an toàn. Trước tình hình địch bao vây, truy lùng ráo riết, Ban chỉ huy Cứu quốc quân quyết định rút hai tiểu đội khỏi khu căn cứ cách mạng Bắc Sơn để bảo toàn lực lượng. Còn một tiểu đội ở lại Bắc Sơn cùng nhân dân chống địch khủng bố, giữ vững cơ sở cách mạng.

Theo kế hoạch, tháng 8-1941, hai tiểu đội Cứu quốc quân rút khỏi khu căn cứ cách mạng Bắc Sơn theo hai hướng: hướng thứ nhất, do hai đồng chí Hoàng Văn Thái và Ðặng Văn Cáp chỉ huy rút về phía Lạng Sơn. Ngày 8-8, tiểu đội này rút lên Văn Mịch và sang biên giới Việt-Trung an toàn, sau đó tham gia học quân sự ở Trung Quốc, sau này một số đồng chí trở thành cán bộ quân sự cao cấp của Ðảng. Hướng thứ hai, do hai đồng chí Phùng Chí Kiên và Lương Văn Tri chỉ huy rút về phía căn cứ cách mạng Cao Bằng. Ngày 19-8, khi đến Pò Kép, xã Văn Học, châu Na Rì bị địch phục kích, Cứu quốc quân anh dũng đánh trả địch, diệt một tên, bắn bị thương tên Chánh Thượng rồi tiếp tục hành quân. Ngày 21-8-1941, khi Cứu quốc quân vừa đến làng Khau Pàn, xã Bằng Ðức, châu Ngân Sơn (Bắc Cạn), bị địch phục kích. Ðồng chí Phùng Chí Kiên đã chỉ huy kiên quyết, chiến đấu dũng cảm, tạo thuận lợi cho đồng đội rút ra và bị thương nặng, bị địch bắt, tra tấn dã man và hy sinh anh dũng. Ðồng chí Lương Văn Tri bị thương, địch bắt giam ở nhà tù tỉnh Cao Bằng. Trước hành động tra tấn rất dã man của địch, đồng chí Lương Văn Tri vẫn giữ vững chí khí của người cộng sản. Do bị địch tra tấn nhiều, đồng chí bị ốm nặng, đã hy sinh trong nhà tù. Còn lại năm đồng chí rút lên khu căn cứ Cao Bằng an toàn. Tiểu đội ở lại căn cứ Bắc Sơn bị địch truy lùng ráo riết, sáu đồng chí bị chúng bắt và xử bắn ở đồn Mỏ Nhài. Bốn đồng chí thoát khỏi vòng vây của địch chuyển xuống căn cứ cách mạng Võ Nhai. Cứu quốc quân bị tổn thất lớn, nhưng quân thù không thể dập tắt được phong trào cách mạng Bắc Sơn-Võ Nhai.

Sau khi đàn áp Trung đội Cứu quốc quân 1 và phong trào cách mạng Bắc Sơn, thực dân Pháp chuyển lực lượng xuống khủng bố phong trào cách mạng Võ Nhai. Trước tình hình đó, các đồng chí lãnh đạo khu căn cứ cách mạng Võ Nhai chủ trương tổ chức lực lượng tự vệ làm nòng cốt cho nhân dân chống địch khủng bố. Ðồng chí Hoàng Quốc Việt, Ủy viên Ban Thường vụ Trung ương Ðảng được phân công ở lại, đã quán triệt cho Ðảng bộ Võ Nhai về đường lối, chủ trương, chính sách của Ðảng và tổ chức lực lượng chống địch khủng bố. Dưới sự chỉ huy trực tiếp của đồng chí Hoàng Quốc Việt, ngày 15-9-1941, tại khu rừng Khuôn Mánh, thôn Ngọc Mỹ, xã Tràng Xá, huyện Võ Nhai (Thái Nguyên), Trung đội Cứu quốc quân 2 được thành lập, gồm 47 cán bộ, chiến sĩ (có ba nữ), biên chế năm tiểu đội. Ðồng chí Hoàng Quốc Việt, thay mặt Ban Thường vụ Trung ương Ðảng công nhận, trao lá cờ đỏ sao vàng và giao nhiệm vụ cho Trung đội. Ðến cuối tháng 10-1941, đơn vị phát triển lên 70 người, biên chế thành bảy tiểu đội, do đồng chí Ðào Văn Trường, Ủy viên Thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ làm Bí thư Ðảng ủy, kiêm Chỉ huy trưởng, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Ban Thường vụ Trung ương Ðảng. Trang bị vũ khí của Trung đội gồm bốn súng ngắn, 32 súng trường và súng khai hậu, còn lại là súng kíp.

Trong vòng vây của kẻ thù, cán bộ, chiến sĩ Cứu quốc quân 2 vừa học tập chính trị, huấn luyện quân sự, vừa tổ chức đánh địch. Những tháng cuối năm 1941, đơn vị đã đánh các trận Khuôn Kẹn (2-10), Khuôn Ba (5-10), Khuôn Ðã (15-10)... Ðiển hình là trận Mỏ Mùng (17-12), Tiểu đội trưởng Hà Văn Mạnh với 28 phát súng trường, bắn chết và bắn bị thương 20 tên địch. Khi bị thương, đồng chí vẫn quyết tâm chiến đấu đến lúc hy sinh để đồng đội rút khỏi vòng vây quân thù. Sau trận này, địch khiếp sợ và khâm phục gọi Cứu quốc quân là "Hùm xám Bắc Sơn".

Trước sự lớn mạnh của Cứu quốc quân, năm 1942, thực dân Pháp tập trung khủng bố lan tràn khắp khu căn cứ Võ Nhai. Trong bối cảnh đó, ngày 23-1-1942, Ủy ban Quân sự - chính trị Bắc Sơn-Võ Nhai họp, nhận định: Lúc này, phong trào cách mạng trong cả nước chưa lớn mạnh, phong trào Bắc Sơn - Võ Nhai chưa phát động được mạnh mẽ, đấu tranh chính trị phối hợp với đấu tranh vũ trang, địch lại tập trung lực lượng khủng bố dã man, Cứu quốc quân cần phải "Hóa chỉnh vi linh" rút ra ngoài vòng vây của địch để bảo toàn lực lượng và tránh tổn thất cho nhân dân. Trên cơ sở nhận định đó, Ủy ban Quân sự-Chính trị Bắc Sơn - Võ Nhai quyết định tạm ngừng tiến công bằng quân sự và xin ý kiến Trung ương. Tháng 2-1942, đồng chí Ðào Văn Trường, Ủy viên Thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ, Bí thư Ðảng ủy, kiêm Chỉ huy trưởng Cứu quốc quân 2, trên đường về an toàn khu miền xuôi báo cáo, xin chỉ thị của Trung ương, bị địch bắt, Cứu quốc quân mất liên lạc với Trung ương. Ðại bộ phận đơn vị chuyển xuống các vùng Bồ Cu, Ðá Trắng thuộc xã Cây Thị, huyện Ðồng Hỷ (Thái Nguyên). Chưa kịp củng cố, chấn chỉnh lực lượng, Cứu quốc quân phải đối phó với đợt khủng bố mới của quân thù. Nhằm tránh tổn thất cho nhân dân và bảo toàn lực lượng, ngày 10-3-1942, một tiểu đội Cứu quốc quân chuyển sang vùng Bắc Giang nghi binh địch; tiếp đó, đại bộ phận Cứu quốc quân rút khỏi vòng vây của địch lên vùng biên giới Việt-Trung an toàn. Một bộ phận nhỏ Cứu quốc quân ở lại, phân tán làm công tác tuyên truyền, gây cơ sở cách mạng.

Bước sang năm 1943, tình hình thế giới, khu vực có những chuyển biến tác động đến phong trào cách mạng Việt Nam. Trước tình hình đó, tháng 2-1943, tại Lũng Hoài (Hòa An, Cao Bằng), lãnh đạo hai khu căn cứ Cao Bằng và Bắc Sơn-Võ Nhai tổ chức hội nghị bàn việc mở rộng phong trào cách mạng, trong đó quyết định mở thông đường liên lạc giữa hai khu căn cứ cách mạng Cao Bằng và Bắc Sơn-Võ Nhai; đồng thời đưa lực lượng Cứu quốc quân trở lại Bắc Sơn-Võ Nhai củng cố phong trào, mở đường liên lạc với Cao Bằng và tìm cách nối liên lạc với Trung ương Ðảng ở miền xuôi.

Thực hiện chủ trương hội nghị Lũng Hoài, trong năm 1943, Cứu quốc quân 2 đẩy mạnh hoạt động, phát triển phong trào cách mạng ra các huyện Võ Nhai, Ðại Từ, Ðịnh Hóa, Phú Lương, Ðồng Hỷ (Thái Nguyên); Bắc Sơn, Bình Gia, Tràng Ðịnh, Thoát Lũng (Lạng Sơn). Ðến cuối năm 1943, con đường "Quần chúng cách mạng" từ khu căn cứ Cao Bằng nối liền với khu căn cứ Bắc Sơn-Võ Nhai, tạo điều kiện cho Cứu quốc quân 2 mở rộng địa bàn hoạt động sang các huyện Chợ Ðồn, Bạch Thông (Bắc Cạn); Sơn Dương, Yên Sơn, Chiêm Hóa (Tuyên Quang).

Nhằm đẩy mạnh phong trào cách mạng, tháng 2-1944, Trung ương Ðảng cử đồng chí Hoàng Quốc Việt, Ủy viên Ban Thường vụ Trung ương Ðảng lên Tuyên Quang kiểm tra tình hình, chỉ đạo phát triển Cứu quốc quân 2. Theo chủ trương đó, ngày 25-2-1944, tại khu rừng Khuổi Kịch, châu Sơn Dương (Tuyên Quang), Trung đội Cứu quốc quân 3 gồm 30 người được thành lập, do đồng chí Triệu Khánh Phương làm Trung đội trưởng. Ðồng chí Hoàng Quốc Việt, thay mặt Trung ương Ðảng công nhận, trao lá cờ đỏ sao vàng và giao nhiệm vụ cho Trung đội.

Ngay sau khi ra đời, Cứu quốc quân 3 đẩy mạnh hoạt động mở rộng địa bàn, đồng thời tranh thủ huấn luyện quân sự. Nội dung gồm những động tác cơ bản về kỹ, chiến thuật. Các chiến sĩ được học kỹ cuốn: "Cách đánh du kích", do đồng chí Hồ Chí Minh soạn thảo. Nhằm tăng cường vũ khí đánh giặc, Ban chỉ huy Cứu quốc quân phát động phong trào tự mua sắm trong tất cả các đơn vị tự vệ. Các Hội cứu quốc vận động nhân dân góp tiền mua sắm vũ khí ủng hộ Cứu quốc quân.

Thực hiện Chỉ thị của Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương (2-1943), công tác xây dựng Ðảng của Cứu quốc quân được chú trọng. Trong điều kiện hoạt động bí mật và phân tán, Cứu quốc quân vẫn duy trì các buổi sinh hoạt Ðảng. Các chi bộ đều phổ biến nhiệm vụ, kế hoạch công tác đến từng cán bộ, chiến sĩ. Nhờ vậy, tinh thần và ý chí chiến đấu của Cứu quốc quân được nâng lên rõ rệt.

Trước tình hình Ðông Dương có sự chuyển biến có lợi cho cách mạng, ngày 7-5-1944, Tổng bộ Việt Minh ra Chỉ thị "Sửa soạn khởi nghĩa". Tiếp đó, ngày 10-8, Trung ương Ðảng kêu gọi "Sắm vũ khí đuổi thù chung". Chấp hành chủ trương của Trung ương Ðảng và Chỉ thị của Tổng bộ Việt Minh, các đơn vị Cứu quốc quân đến từng địa phương chuẩn bị khởi nghĩa. Ðịa bàn hoạt động của Cứu quốc quân ngày càng được mở rộng nhiều vùng thuộc các tỉnh Thái Nguyên, Tuyên Quang, Lạng Sơn và Bắc Cạn.

Hoảng sợ trước phong trào cách mạng của nhân dân ta, cuối tháng 10-1944, thực dân Pháp tập trung quân bao vây, mở cuộc càn quét lớn vào khu căn cứ Võ Nhai. Sau gần một tháng đấu tranh chống địch khủng bố bằng các hình thức tập kích, phục kích, phá cầu đường, cắt giao thông liên lạc, diệt mật thám tay sai, kết hợp với các hình thức đấu tranh chính trị và binh vận, Cứu quốc quân đã giành một số thắng lợi. Thế nhưng, do bị địch bao vây, Cứu quốc quân gặp khó khăn do lương thực, vũ khí không đủ để kéo dài cuộc chiến đấu. Trước tình hình đó, đại bộ phận Cứu quốc quân 2 rút sang vùng Yên Thế (Bắc Giang) để bảo toàn lực lượng. Trong khi đó, Cứu quốc quân 3 vẫn duy trì hoạt động, sẵn sàng hỗ trợ nhân dân khởi nghĩa giành chính quyền khi có thời cơ.

Những tháng đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới thứ hai chuyển biến rất mau lẹ với thắng lợi dồn dập của quân Ðồng minh. Ở Ðông Dương, do mâu thuẫn trở nên sâu sắc đã dẫn tới cuộc đảo chính Nhật hất cẳng Pháp, độc chiếm Ðông Dương. Nắm thời cơ thuận lợi, Ban Thường vụ Trung ương Ðảng họp Hội nghị mở rộng (3-1945) quyết định phát động cao trào chống Nhật, cứu nước, sẵn sàng Tổng khởi nghĩa khi có đủ điều kiện. Căn cứ vào quyết định của Hội nghị, ngày 12-3-1945, Ban Thường vụ Trung ương Ðảng ra Chỉ thị "Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta". Thực hiện chủ trương khởi nghĩa từng phần, Ban lãnh đạo chiến khu Hoàng Hoa Thám quyết định giao nhiệm vụ cho các đơn vị Cứu quốc quân: phối hợp với các đội tự vệ tước vũ khí của địch để trang bị cho ta, phối hợp với quần chúng khởi nghĩa giành chính quyền ở các địa phương.

Chấp hành chỉ thị của Trung ương Ðảng và hưởng ứng phong trào kháng Nhật cứu nước, các đơn vị Cứu quốc quân cùng các đội du kích, tự vệ hỗ trợ nhân dân nổi dậy giành chính quyền. Ngày 26-3-1945, một đơn vị Cứu quốc quân phối hợp với tự vệ địa phương tiến đánh Ðịnh Hóa (Thái Nguyên), giải phóng châu lỵ, phá nhà lao, giải thoát cho hơn 200 tù nhân, trong đó có 30 tù chính trị, phá kho thóc chia cho dân nghèo, thành lập Ủy ban Giải phóng dân tộc lâm thời phủ Ðịnh Hóa. Ngày 29-3-1945, một đơn vị Cứu quốc quân cùng tự vệ địa phương tiến công bao vây, làm chủ phủ lỵ Ðại Từ. Trong khi đó, những đơn vị Cứu quốc quân hoạt động ở Tuyên Quang phối hợp cùng tự vệ và nhân dân các địa phương khởi nghĩa, giải phóng các châu Sơn Dương (11-3), Chiêm Hóa (30-3), Yên Sơn, Na Hang, Hàm Yên (1-4). Ở Thái Nguyên, một đơn vị Cứu quốc quân cùng tự vệ và quần chúng giải phóng La Hiện (10-4)...

Như vậy, trên cơ sở Ðội du kích Bắc Sơn, Ðảng ta đã quyết định phát triển thành các Trung đội Cứu quốc quân 1, 2 và 3. Ðây là một trong những đội quân tiền thân của Quân đội ta. Tuy lực lượng còn non trẻ, trang bị vũ khí thô sơ, nhưng các đơn vị Cứu quốc quân có Ðảng lãnh đạo đã hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu, duy trì và phát triển lực lượng, bảo vệ cán bộ cao cấp của Trung ương và khu căn cứ cách mạng. Ðồng thời, tổ chức xây dựng căn cứ cách mạng từ những căn cứ nhỏ còn bị chia cắt tiến lên nối liền các căn cứ rộng lớn, từ chưa hoàn chỉnh đến ngày càng hoàn chỉnh, góp phần đưa đến sự ra đời của Khu giải phóng Việt Bắc, căn cứ địa chủ yếu của Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Quá trình xây dựng, hoạt động của các đơn vị Cứu quốc quân đã để lại những kinh nghiệm phong phú, góp phần xây dựng nên truyền thống tốt đẹp của Quân đội ta thời kỳ hình thành và trưởng thành trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Ðại tá, TS DƯƠNG ÐÌNH LẬP
(Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam)

-----------------------

(1) Về ngày thành lập Trung đội Cứu quốc quân 1, trước đây có tài liệu viết ngày 23-2-1941. Nhưng cũng có ý kiến ngày 1-5-1941 mới là ngày chính thức ra đời. Chúng tôi đang tiếp tục nghiên cứu xác định ngày thành lập Trung đội Cứu quốc quân 1.

Có thể bạn quan tâm