Xuất hiện trên văn đàn từ đầu thập kỷ 70 của thế kỷ trước, Hữu Thỉnh nhanh chóng trở thành một nhà thơ nổi bật trong văn học chống Mỹ, cứu nước.
Từ Tiếng hát trong rừng, bài thơ viết sớm nhất vào năm 1968 đến các trường ca Sức bền của đất (1975), Ðường tới thành phố (1977), và các tập Thư mùa đông, Trường ca biển (1981 - 1994), thơ Hữu Thỉnh càng ngày càng có sức lan tỏa trong công chúng. Và có thể khẳng định rằng, ông là một thi tài, một nhà thơ có bề dày tác phẩm và có phong cách riêng trong văn học Việt Nam hiện đại.
Nguyễn Nguyên Tản - một cây bút nghiên cứu phê bình văn học có công trình riêng về thơ Hữu Thỉnh viết: "Thơ Hữu Thỉnh có một vẻ đẹp riêng: sắc sảo, tinh tế mà vẫn bình dị, chân thật mà không kém phần hư ảo, hồn nhiên mà bay bổng, tự nhiên mà không nông cạn" (Thi pháp thơ Hữu Thỉnh, NXB Hội Nhà văn, 2005, tr.176).
Với tập thơ mới Thương lượng với thời gian (NXB Hội Nhà văn, 2005) Hữu Thỉnh đã có bước chuyển quan trọng trong sáng tác của mình so với thời kỳ trước.
Trước hết là về quan niệm nghệ thuật.
Có một quan niệm nghệ thuật chung và đẹp đẽ của các nhà văn Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến, trong đó có Hữu Thỉnh, coi người nghệ sĩ là chiến sĩ, lấy nghệ thuật phục vụ trực tiếp cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Ðảng.
Quan niệm đó với ông và các nhà văn khác về cơ bản vẫn không thay đổi nhưng đã bớt đi việc phục vụ các phong trào, các chủ trương tuyên truyền một cách trực tiếp. Nhân đây cũng xin bàn thêm về văn nghệ tuyên truyền. Nếu văn nghệ chỉ tuyên truyền cho một vấn đề mang tính cục bộ, một vấn đề mà chính người nghệ sĩ cũng chưa giác ngộ và tin theo thì sẽ hạ thấp giá trị của văn nghệ, biến văn nghệ thành một loại hình cổ động nhất thời. Nhưng nếu như tuyên truyền cho một sự nghiệp lớn, cho những hành động mang giá trị nhân bản cao và là niềm tin yêu thành thực của người nghệ sĩ thì tác phẩm văn nghệ đó mang tầm vóc lớn và có ý nghĩa vĩnh hằng. Vì vậy, nhắc đến văn nghệ tuyên truyền, trừ hạn chế đã nói ở trên, thì nó vừa là đặc điểm của một giai đoạn, vừa là một vinh dự.
Từ sự điều chỉnh, bổ sung về quan niệm nghệ thuật đó mà vị thế của nhà văn thay đổi.
Trước đây nhà văn đứng giữa hiện tại và hướng tới tương lai, thậm chí có người chỉ ngập chìm trong hiện tại nên dù có sinh ra những bông hoa đẹp thì không ít bông hoa sẽ chóng tàn. Bây giờ nhà văn đứng giữa ba chiều của lịch sử, sống nhiều hơn trong quá khứ và tương lai - nghĩa là biết dịch chuyển về phía một cuộc sống bất biến hơn, trừu tượng hơn.
Trước đây nhà văn lấy khách thể làm đối tượng chủ yếu, mô tả những đối thoại của người đời; bây giờ nhà văn phải đối thoại trước hết với chính mình, phải khai thác chủ yếu ở kinh nghiệm sống của chính mình.
Hữu Thỉnh đã có bước dịch chuyển ấy.
Nếu nhìn bề ngoài thì thơ ông đã có sự thu hẹp về không gian để mở ra về phía thời gian. Nhưng cùng với việc mở ra thời gian, ta cũng có thể hiểu là không gian cũng được mở rộng hơn - có nghĩa là nhà thơ đã có thể cùng đối thoại với người xưa, với mai sau. Ðó là một con đường đúng, con đường cha ông đã làm. Nếu trước đây, thơ Hữu Thỉnh được viết trực tiếp, từ một đêm trước chiến dịch, một trưa Phan Thiết, một chiều ở biển thì bây giờ đề tài bộc phát từ bên trong; nếu trước đây thơ ông đầy những hoa sim cằn, bậc đá bến sông, hoa dong riềng cuối giậu, tiếng cuốc, gió đồng... một hiện thực sinh động nhưng bề bộn làm nặng thơ thì bây giờ ông ưu tiên cho những kết quả của suy lý; nếu trước đây sáng tác của ông chủ yếu là trường ca thì bây giờ là thơ ngắn.
Có một điều không đổi ở thơ ông qua cả hai thời kỳ là tình yêu tha thiết đối với Tổ quốc và con người.
Có một hứng thú khi đọc thơ ông là hầu như ở bài nào, thời kỳ nào cũng có câu thơ hay, lay động người đọc vì tình cảm hoặc sự thông minh. Trước đây, đó là những câu :
Hai mươi năm chị tôi đi đò đầy
Cứ sợ đắm mình vì còn nhan sắc
Chị chôn tuổi xuân trong má lúm đồng tiền
(Ðường tới thành phố)
Anh xa em
Trăng cũng lẻ
Mặt trời cũng lẻ
Biển vẫn cậy mình dài rộng thế
Vắng cánh buồm một chút đã cô đơn
(Thơ viết ở biển )
...
Ngày nay, khi nói về người ly hương đi mở đất, Hữu Thỉnh thật tài tình - tài về cách biểu hiện, tình ở trong sự hóa thân trong số phận của nhân dân: Chim tha phương đậu xuống bụi chà là, Câu vọng cổ theo người đi mở đất, Trồng đầu tiên là trồng cây khói nhớ nhà, Bay vật vã trong buổi chiều xa xứ... Có bài như Một lời, câu nào cũng hay:
Một lời như thể mái chèo
Khi gãy cán đã bao người cập bến
Một lời như thể lưỡi cưa
Khi nghĩ lại bao thân cây đã đổ
Một lời như thể giếng thơi
Soi trong đất lại thấy trời ở trong.
Tập Thương lượng với thời gian lấy tên một bài thơ đặt tên cho tập. Bài thơ chỉ có bốn câu :
Buổi sáng lo kiếm sống
Buổi chiều tìm công danh
Buổi tối đem trí khôn ra mài giũa
Tỉnh thức, những hàng cây bật khóc.
Trong những chiêm nghiệm cuộc đời, có lẽ chính nhà thơ đã nhiều khi bật khóc, không giấu nổi thất vọng, chán chường khi thấy "hè phố bị hắt nước loang lổ" mà "Luật nhân quả ngủ gật trên bậc cửa"; khi thấy "Tôi như cây biết giấu lá vào đâu, giữa gió bụi cõi người, Nếu giấu lá thì còn đâu bóng mát, Bóng mát mà không che nổi chính tôi", nhưng sau tất cả là lẽ sống yêu thương, là sự lạc quan khi trở về với cội nguồn, với mẹ trong cái nghĩa cụ thể nhất và tượng trưng nhất của từ đó:
Tôi lại bước dưới trời
Không tiếc mòn tuổi trẻ
Ði hoài không gặp tiên
Lại quay về hỏi mẹ
- Hãy yêu lấy con người
Dù trăm cay nghìn đắng
Ðến với ai gặp nạn
Xong rồi chơi với cây.
Phải chăng đó là thông điệp chủ yếu mà qua Thương lượng với thời gian, Hữu Thỉnh muốn gửi đến bạn đọc?