Tuy nhiên, bên cạnh những mô hình phát huy hiệu quả, ở một số nơi, sự kết nối giữa bảo tồn và phát triển sinh kế vẫn còn thiếu tính đồng bộ, bền vững; công tác quản lý rừng dựa vào cộng đồng chưa có chính sách ổn định lâu dài…
Tạo sinh kế cho người dân
Xác định vùng đệm là yếu tố quan trọng trong bảo tồn rừng, Vườn quốc gia Ba Vì đã vận dụng nguyên tắc phát triển trên nền tảng môi trường, kinh tế và xã hội bền vững. Từ khi thành lập đến nay, Vườn quốc gia Ba Vì đã chú trọng kinh tế vùng đệm nhằm tránh tác động tiêu cực đến bảo tồn tài nguyên rừng.
Phó Giám đốc Vườn quốc gia Ba Vì Đỗ Thanh Hùng cho biết: “Đến nay, nhiều dự án có tác động tích cực, giúp thay đổi đời sống nhân dân ở vùng đệm. Điển hình như: Mô hình trồng dược liệu dưới tán rừng giúp người dân tham gia có thu nhập bình quân đạt 80 đến 100 triệu đồng/ha/năm. Mô hình nuôi ong dưới tán rừng với quy mô 30 đến 100 đàn ong/hộ, mang lại thu nhập 50 đến 70 triệu đồng/năm, qua đó giúp thúc đẩy quá trình thụ phấn tự nhiên, bảo vệ đa dạng sinh học”.
Là một trong những hộ dân sống ở vùng đệm Vườn quốc gia Ba Vì, nhiều năm qua, gia đình ông Nguyễn Tuấn Anh, xã Ba Vì (Hà Nội) có thu nhập tốt từ trồng keo và các loại cây dưới tán. Ông Nguyễn Tuấn Anh chia sẻ: “Gia đình tôi đang trồng 25ha keo và bạch đàn, đây là những loại cây chi phí đầu tư và công lao động ít mà hiệu quả kinh tế lại tốt. Sau 5 năm trồng, thu nhập đạt 150 triệu đồng/ha keo và từ 40 đến 50 triệu đồng/ha/tháng với cây cau tứ thời”.
Gia đình ông Nguyễn Xuân Hùng, xã Ba Vì cũng đang trồng gần 3ha keo, sau 5 đến 7 năm cho thu nhập từ 120 triệu đến 150 triệu đồng/ha. Dong riềng dưới tán cũng cho thu nhập khoảng 11 đến 12 tấn bột, lãi gần 100 triệu đồng.
Tương tự tại Vườn quốc gia Xuân Thủy, những năm qua, các mô hình sinh kế mới đã tạo thu nhập ổn định, cải thiện đời sống nhân dân và từng bước huy động sự tham gia của cộng đồng vào bảo tồn, phát triển bền vững tài nguyên thiên nhiên.
Phó Giám đốc Vườn quốc gia Xuân Thủy Phạm Vũ Ánh cho biết: “Vườn quốc gia có 1.171ha rừng ngập mặn và 8.000ha vùng đệm. Bên cạnh những giá trị về mặt phòng hộ như: Cố định phù sa, lưu trữ các-bon, phòng, chống thiên tai, bão, lũ, rừng ngập mặn còn là vườn ươm, nơi trú ngụ, sinh sản của nhiều loài thủy sản. Trước nguy cơ suy giảm và áp lực khai thác quá mức, Vườn quốc gia phối hợp chính quyền và người dân xây dựng mô hình khai thác bền vững nguồn lợi thủy sản dưới tán rừng ngập mặn nhằm bảo đảm sinh kế, bảo tồn tài nguyên thiên nhiên”.
Hoạt động du lịch cũng được triển khai thành công ở các vườn quốc gia như: Cúc Phương, Ba Vì, Phong Nha-Kẻ Bàng, Pù Mát, Cát Tiên… mang lại lợi ích lớn cho người dân. Đơn cử tại Vườn quốc gia Xuân Thủy, giai đoạn 2024-2025, xây dựng thành công mô hình du lịch sinh thái với ba sản phẩm du lịch gắn với rừng, đa dạng sinh học và văn hóa cộng đồng. Quá trình khai thác, vận hành cho thấy mô hình đã thu hút được lượng khách tham quan trung bình từ 20.000 đến 25.000 lượt người/năm; các hộ tham gia mô hình có thu nhập từ 100 đến 200 triệu đồng/năm, cao gấp 1,5 đến 2 lần so với làm nghề khai thác thủy sản.
Giảm áp lực khai thác tài nguyên rừng
Theo Phó Trưởng phòng Khuyến nông, Trồng trọt và Lâm nghiệp (Trung tâm Khuyến nông quốc gia, Bộ Nông nghiệp và Môi trường) Nguyễn Huy Thuấn: Việt Nam hiện có 34 vườn quốc gia, 56 khu dự trữ thiên nhiên, 14 khu bảo tồn loài-sinh cảnh, 54 khu bảo vệ cảnh quan… với diện tích hơn 2,37 triệu ha. Vùng đệm các vườn quốc gia là khu vực có vai trò quan trọng bảo đảm hài hòa giữa bảo tồn tài nguyên rừng và phát triển sinh kế cộng đồng. Tuy nhiên, vùng đệm là nơi sinh sống của hàng triệu người dân nên dễ bị tổn thương. Do áp lực sinh kế, một bộ phận người dân vẫn phụ thuộc đáng kể vào khai thác lâm sản ngoài gỗ, săn bắt, canh tác và chăn thả gia súc trong rừng, ảnh hưởng trực tiếp đến tài nguyên rừng và bảo tồn đa dạng sinh học.
Trên thực tế, nhiều mô hình kết nối bảo tồn rừng và tạo sinh kế cộng đồng đang mang lại lợi ích cho người dân vùng đệm ở các vườn quốc gia: Ba Vì, Hoàng Liên, Cúc Phương, Pù Mát, Bạch Mã, Kon Ka Kinh với thu nhập người dân tăng trung bình từ 1,5 đến 3 lần so với làm nông nghiệp, đồng thời, góp phần bảo tồn nguồn gen cây thuốc quý, hạn chế khai thác dược liệu tự nhiên, tăng mật độ che phủ và giảm xói mòn đất.
Chia sẻ về vấn đề này, Phó Giám đốc Vườn quốc gia Xuân Thủy Phạm Vũ Ánh cho biết: Sau năm 2010, Vườn quốc gia xây dựng mô hình tôm sinh thái-rừng ngập mặn áp dụng chủ yếu tại các vùng rừng ngập mặn ven sông, biển trong vùng đệm và vùng chuyển tiếp với diện tích 1.000ha. Mô hình giúp giữ lại tối đa diện tích rừng ngập mặn, giảm áp lực khai thác tài nguyên rừng, góp phần duy trì đa dạng sinh học, cải thiện chất lượng nước. Tuy năng suất không cao bằng nuôi công nghiệp nhưng người dân có thu nhập ổn định, rủi ro thấp, giúp người dân gắn bó với rừng, có thêm động lực bảo vệ tài nguyên và tham gia tích cực vào quản lý bảo tồn.
Theo Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông quốc gia Hoàng Văn Hồng, để tăng cường mối liên kết bảo tồn rừng và sinh kế cộng đồng tại vùng đệm các vườn quốc gia, thời gian tới, cần hoàn thiện khung chính sách về đồng quản lý, chia sẻ lợi ích, khuyến khích đầu tư vào sinh kế xanh, bảo tồn thiên nhiên và kinh tế tuần hoàn trong vùng đệm; xây dựng, nhân rộng mô hình sinh kế dựa vào hệ sinh thái, trong đó cộng đồng là chủ thể quản lý và hưởng lợi từ rừng, hướng đến chuỗi giá trị bền vững cho các sản phẩm đặc hữu; phát triển mạng lưới hợp tác giữa các vườn quốc gia, doanh nghiệp và tổ chức xã hội, nhằm kết nối thị trường, xây dựng thương hiệu cho sản phẩm vùng đệm; xây dựng cơ chế hỗ trợ tài chính, kỹ thuật cho các mô hình sinh kế bền vững, đặc biệt ưu tiên các hộ nghèo, dân tộc thiểu số và nhóm dễ bị tổn thương; phát triển các mô hình nông-lâm kết hợp phù hợp điều kiện sinh thái đa dạng vùng đệm, giúp bảo vệ rừng, gia tăng thu nhập cho người dân…