Bài 1: Sự thay đổi diện mạo nhanh chóng
Không ít chuyên gia cho rằng, nhiều thập niên qua, lĩnh vực kiến trúc-cảnh quan nông thôn đã bị “bỏ rơi”. Ngoài những bản quy hoạch chung phân định ranh giới đất, tại nhiều khu vực nông thôn, Luật Xây dựng và các quy định về xây dựng, kiến trúc hình như chưa thật sự phát huy hiệu quả.
Sự hoạch định còn thiếu tầm nhìn xa, dự báo thiếu khoa học cùng với việc thực thi kỷ cương chưa nghiêm của cơ quan quản lý và nhận thức của người dân hạn chế tại nhiều vùng quê đã dẫn đến kiến trúc nông thôn phát triển tự phát. Với cách kiến tạo không phù hợp địa hình, cảnh quan cùng trào lưu vay mượn, chắp vá kiến trúc cũng góp phần làm cho nhiều làng quê nguy cơ trở nên biến dạng, méo mó...
Trước hết, chúng ta cùng thống nhất về sự ra đời của xóm làng Việt Nam để làm căn cứ nhận diện cho những biến động trong thời đương đại. Các nhà nghiên cứu đã đúc kết khái quát, sự hình thành văn minh làng xã gắn với việc phát triển sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là nông nghiệp lúa nước.
Trước đó, khi con người sống du canh du cư thì chưa tạo nên lối sống quần tụ, xóm làng chưa thể ra đời. Xét về quan hệ xã hội thì con người, với nhu cầu sản xuất, sinh hoạt và giao lưu, từ quan hệ huyết thống đã nới dần sang quan hệ láng giềng - địa vực. Đây được coi là nguyên tắc cơ bản hình thành nên làng xã và văn hóa làng xã. Quá trình tụ cư cùng với hệ thống thiết chế làng xã đã hình thành và phát triển trên điều kiện như vậy; tính cộng đồng và tính tự trị cũng từ đó ra đời.
Trong quá trình hình thành và phát triển của thiết chế làng xã, thế giới vật chất của làng trở thành điểm tựa hình thành thế giới tinh thần của cư dân ở đó, và ngược lại. Biểu tượng của tính tự trị mang màu sắc riêng của mỗi ngôi làng Việt rõ ràng nhất là lũy tre ken dày như một thành lũy bất khả xâm phạm. Còn biểu tượng của tính cộng đồng làng là mái đình, sân đình, cây đa, bến đò, giếng làng và những nơi có thể tụ họp trong không gian làng. Ngôi đình cổ kính mà ngày xưa làng nào cũng có không chỉ là trung tâm tôn giáo, tâm linh, trung tâm hành chính mà còn là một địa chỉ văn hóa của làng khi diễn ra hội hè, đình đám, hát xướng, liên hoan...
Điều đó cho thấy thiết chế làng đã góp phần quan trọng tạo nên cảnh đẹp làng quê Việt Nam cổ truyền với không gian trữ tình, dung dị. Hình ảnh của làng đã đi vào tâm thức, có sức cuốn hút và lay động cảm xúc của người ở, kẻ đi. Nỗi nhớ trong lòng mỗi chúng ta khi nghĩ về quê hương là hình ảnh làng xóm thân thương với lũy tre xanh, những hàng cau, hàng dừa vươn thẳng, là cổng làng uy nghi mà gần gũi.
Làng là mái đình trầm mặc bên cây đa cổ thụ, là ngôi chùa cổ rêu phong hướng mặt ra bến sông, là ngõ gạch đơn sơ đếm thời gian ký ức. Làng là bến sông, nơi con trẻ bơi lội vui đùa, nơi những người phụ nữ chọn làm chốn giao lưu, tâm sự. Làng là lúa, là khoai, là luống đậu, đám rau, là rơm rạ ngày mùa, lục lạc trâu về trong buổi hoàng hôn.
Từ cảnh sắc thiên nhiên, kiến trúc và văn hóa con người, thì làng Việt từng là một chỉnh thể ổn định. Bởi vậy, tất cả hệ giá trị vật chất và tinh thần của làng trường tồn qua mọi biến thiên thời gian đều có lý do tồn tại của nó.
Trở lại với thực tại, nông thôn nước ta đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đẩy mạnh chương trình xây dựng nông thôn mới. Thực hiện chủ trương của Đảng, sự nghiệp xây dựng nông thôn mới là kiến tạo những giá trị mới, làm cho nông thôn Việt Nam văn minh, giàu đẹp hơn nhưng không lai căng, không làm mất những giá trị văn hóa truyền thống.
Nhưng một thực trạng phổ biến là nhiều làng quê chúng ta có vẻ đang xấu đi, trước hết là về cảnh quan, kiến trúc. Phong cảnh và nhiều hạ tầng cổ truyền quý báu mang nét đẹp riêng của mỗi ngôi làng đã bị lãng quên, bị “hô biến” những giá trị đặc sắc, bởi tư tưởng duy ý chí và cách làm nóng vội, không phù hợp.
Hậu quả là ao làng, giếng làng bị lấp. Bến nước đẹp bỏ hoang. Những lối đi bằng đá xanh nhẵn bóng thời gian bị cạy lên để thay bằng những con đường bê-tông không mấy ấn tượng. Những hàng cây cổ thụ bị chặt bỏ để phân lô, bán nền, hình thành khu dân cư mới. Những cổng làng chứng tích trăm năm bị “hạ giải” và thay vào đó là những chiếc cổng phô trương, vô hồn. Những ngõ trúc quanh co, những hàng rào dâm bụt tình tứ bị thay bằng mầu xỉn sẫm của gạch đá kín cổng, cao tường, che khuất tầm mắt và khuất luôn cả tình làng nghĩa xóm…
Không khó để chúng ta nhận diện thực trạng về sự mất trật tự và thiếu bản sắc của kiến trúc nông thôn đương đại như nhận định khái quát của Kiến trúc sư Hoàng Đạo Kính: “Hiện đang thịnh hành ba cách nhìn về sự phát triển của kiến trúc nông thôn. Nông thôn đô thị hóa nhanh, với sự áp đảo của các hình thức kiến trúc đô thị, sự bê-tông hóa - nhựa đường hóa và phố hóa những con đường làng, sự phổ cập các tiện nghi đô thị và đặc biệt là sự gia tăng mật độ xây cất cùng độ cao nhà cửa mang hình thái đô thị. Một cách nhìn khác: kiến trúc nông thôn nhại lại kiến trúc thành phố, với nhà ống-nhà chia lô, dạng cái hộp và “tô điểm” rập khuôn theo hình mẫu cũ kỹ từ thành phố”.
Ông Kính cũng cho rằng: “Kiến trúc nông thôn hiện nay là một nền kiến trúc hầu như tự phát, ít được hướng dẫn cả mặt quy hoạch kiến trúc lẫn thẩm mỹ. Nông thôn giàu lên, về phương diện nào đó tiến sát đô thị song kiến trúc lại thiếu định hướng. Có thể nói, kiến trúc tổ ấm của hàng triệu nông dân đang bị các nhà hoạch định chính sách cùng các nhà kiến trúc bỏ rơi”.
Kiến trúc nông thôn hiện nay là một nền kiến trúc hầu như tự phát, ít được hướng dẫn cả mặt quy hoạch kiến trúc lẫn thẩm mỹ. Nông thôn giàu lên, về phương diện nào đó tiến sát đô thị song kiến trúc lại thiếu định hướng. Có thể nói, kiến trúc tổ ấm của hàng triệu nông dân đang bị các nhà hoạch định chính sách cùng các nhà kiến trúc bỏ rơi.
Kiến trúc sư Hoàng Đạo Kính
Chính sự “bỏ rơi” ấy mà không gian cảnh quan, môi trường và hệ sinh thái làng quê của chúng ta đang bị phá vỡ. Cơn lốc đô thị hóa vội vã, thiếu kiểm soát cùng với lối tư duy phát triển lệch lạc, ẩu đoảng, thẩm mỹ phô trương kệch cỡm đang nguy cơ làm cho làng quê, cho nông thôn phai dần bản sắc.
Làng bây giờ không khác gì phố với sự ken dày của bê-tông, giảm thiểu cây xanh và mặt nước. Không gian làng quê ngày càng thiếu cân bằng, thiếu sự hài hòa vốn có bởi những quy hoạch tùy tiện, áp đặt, chắp vá tạo nên sự ngột ngạt, hỗn độn, phá vỡ hình ảnh phóng khoáng, thân thương. Những khối nhà cao tầng với các mẫu kiến trúc lai căng đủ loại được bê nguyên xi từ thành phố, từ các quốc gia khác về đặt ngay bên cạnh cánh đồng lúa ngàn đời trở nên lạc lõng.
Quỹ đất nông thôn còn rộng mà hóa ra chật khi nhà ở cư dân và rất nhiều ngôi nhà thờ họ cứ tiến ra mặt đường thỏa mãn sự khoe khoang. Làng Việt cổ truyền đang có nguy cơ tan biến khi phố thì chưa ra phố mà làng chẳng còn dáng dấp của làng.
Các nhà chuyên môn cho rằng, kiến trúc nông thôn đang đứng trước những vấn đề nan giải về cách lựa chọn mô hình, quy hoạch, thiết kế, duy trì cảnh quan, bảo vệ môi trường và nhiều vấn đề khác. Thực trạng kiến trúc nông thôn đòi hỏi phải có những nghiên cứu sâu, những giải pháp hợp lý. Không nên áp đặt hình mẫu chung mà phải tìm kiếm những mô hình nhà ở phù hợp với địa hình, cảnh quan, khí hậu, đáp ứng công năng nhưng vẫn bảo đảm bản sắc vùng miền, thậm chí theo cảnh sắc, địa thế mỗi làng.
Những ngôi nhà nông thôn không chỉ đáp ứng nhu cầu của con người nơi đó mà còn tạo nên sức sống, vẻ đẹp sinh động của làng quê với nét đặc trưng riêng; hiện đại, tiện nghi mà vẫn giữ được những nét đẹp truyền thống. Về điều này, ông cha ta từ hàng nghìn năm qua đã kiến tạo những mô hình phù hợp, điều đó là cốt lõi để dựng nên bản sắc cho cảnh quan làng Việt.
Còn ngày nay, nền tảng kinh tế-xã hội có sự thay đổi, công năng của mỗi ngôi nhà và cách tổ chức sinh hoạt trong từng gia đình cũng không giống trước. Chúng ta hãy coi đó là những thách thức khoa học, những bài toán khó mà các nhà hoạch định, quản lý và chuyên môn cần đóng góp tâm huyết, trí tuệ để đưa ra lời giải phù hợp.
Thời đại phát triển, chúng ta cũng không chỉ sống bằng tâm niệm hoài cổ theo tư duy “ao làng”. Nhưng phải nhận thức rằng, những giá trị tốt đẹp xưa cũ thì không nên để dễ dàng mất đi mà phải bảo tồn hài hòa trong không gian mới mẻ khi tiến trình phát triển không thể dừng lại. Xã hội ngày nay với những biến động không ngừng của nó, cần phải được nhìn nhận và tìm kiếm những giải pháp phù hợp.
Nhiều quốc gia đã áp dụng thành công mô hình “nông thị” hay cách gọi khác là “nông trấn” (agritown) như một cách dung hòa giữa phát triển hiện đại và bảo lưu những giá trị truyền thống. Trong một “nông thị” như thế, diện tích mặt nước, bãi cỏ, khu vui chơi vẫn được ưu tiên và khu vực tâm linh, nhà ở, sản xuất, thương mại, hành chính, trường học được sắp xếp hợp lý, hài hòa.
Trong hoàn cảnh đó, nhiều quốc gia đã áp dụng thành công mô hình “nông thị” hay cách gọi khác là “nông trấn” (agritown) như một cách dung hòa giữa phát triển hiện đại và bảo lưu những giá trị truyền thống. Trong một “nông thị” như thế, diện tích mặt nước, bãi cỏ, khu vui chơi vẫn được ưu tiên và khu vực tâm linh, nhà ở, sản xuất, thương mại, hành chính, trường học được sắp xếp hợp lý, hài hòa. Không có một mẫu chung, mà mỗi không gian cảnh quan và kiến trúc làng phải phù hợp với điều kiện tự nhiên, địa hình, nhu cầu sản xuất và sinh hoạt.
Gần đây, nhiều bản người Thái, người Mường ở phía bắc, các buôn người Ê Đê, Cơ Ho phía nam hay các làng người Kinh khu vực đồng bằng sông Hồng, sông Cửu Long đã rất quan tâm bảo tồn văn hóa tộc người và không gian sống cổ truyền nhằm khai thác du lịch. Từ góc độ bảo tồn không gian làng Việt có thể coi đó là những hình mẫu quý. Các cơ quan chức năng như Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hay Viện Quy hoạch đô thị và Nông thôn quốc gia (Bộ Xây dựng) nên đặc biệt quan tâm đến sự thay đổi diện mạo các làng quê, tích cực tham gia cùng chính quyền cơ sở và hướng dẫn người dân ý thức hơn trong việc bảo tồn và kiến tạo những giá trị gia tăng để làm đẹp không gian, cảnh quan làng quê Việt Nam trong thời đổi mới.