Bản hùng ca trên biển của Hải quân nhân dân Việt Nam

NDO - Trong những năm chiến tranh chống Mỹ khốc liệt, lực lượng Hải quân đã nghiên cứu, tổ chức tuyến vận tải trên biển để chở vũ khí, trang bị, lực lượng vào chi viện cho chiến trường miền nam. Từ đó, hình thành nên con đường huyền thoại: Đường Hồ Chí Minh trên biển, góp phần to lớn, quan trọng cho công cuộc chiến đấu giải phóng hoàn toàn miền nam, thống nhất đất nước, non sông thu về một mối.
0:00 / 0:00
0:00
Những con tàu nhỏ nhoi viết nên bản hùng ca trên biển.
Những con tàu nhỏ nhoi viết nên bản hùng ca trên biển.

Giữa năm 1959, thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng và Quân ủy Trung ương về việc mở các tuyến vận tải đường bộ, đường biển để vận chuyển vũ khí, trang bị, lực lượng chi viện cho chiến trường miền nam, Tiểu đoàn 603 được thành lập với tên gọi bí mật là “Tập đoàn đánh cá Sông Gianh”, với nhiệm vụ nghiên cứu phương thức vận chuyển bằng đường biển vào nam.

Phương tiện vận tải ban đầu của đơn vị là 4 chiếc thuyền gỗ, mỗi chiếc trọng tải từ 15 đến 20 tấn; thuyền có 2 đáy, phía dưới để vũ khí, phía trên để lưới và dụng cụ đánh cá, cải trang thành thuyền buồm đánh cá miền nam.

Cuối năm 1959, công tác chuẩn bị cho vận chuyển đã cơ bản hoàn thành. Tiểu đoàn 603 tổ chức chuyến thuyền vượt biển đầu tiên, nhiệm vụ là chở 5 tấn vũ khí và thuốc chữa bệnh cho chiến trường Khu 5; địa điểm cập bến là chân đèo Hải Vân. Tuy nhiên, chuyến đi đầu tiên đã không thành công.

Bản hùng ca trên biển của Hải quân nhân dân Việt Nam ảnh 1

Thủ tướng Phạm Văn Đồng thăm và động viên cán bộ, chiến sĩ Đoàn 125 nhân dịp Tết Nhâm Tuất 1972.

Nhận thấy việc dùng thuyền gỗ, chạy bằng buồm, chở vũ khí vào chiến trường bằng đường biển gặp rất nhiều khó khăn và không an toàn, Trung ương quyết định cho Tiểu đoàn 603 ngừng hoạt động. Trong khi chờ đợi trên tìm phương án mới, Tiểu đoàn 603 giải thể và được chuyển về Tiểu đoàn 301 làm nhiệm vụ mở đường Trường Sơn.

Đầu năm 1960, cùng với phong trào Đồng khởi Bến Tre, phong trào cách mạng của các tỉnh đồng bằng Nam Bộ chuyển mạnh lên thế tiến công và trở thành cao trào đồng khởi rộng khắp.

Trước tình hình đó, yêu cầu cấp bách là phải nhanh chóng vận chuyển vũ khí, hàng hóa để chi viện cho chiến trường Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Lúc này, tuyến đường bộ trên dãy Trường Sơn, Đoàn 559 đã mở và hoạt động có hiệu quả, nhưng chưa vươn tới các địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng. Quân ủy Trung ương chỉ đạo Bộ Tổng Tham mưu khẩn trương nghiên cứu đề án mới về xây dựng và tổ chức lực lượng vận tải biển chi viện cho chiến trường Nam Bộ và Khu 5.

Bản hùng ca trên biển của Hải quân nhân dân Việt Nam ảnh 2

Đoàn 125 đón nhận danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân lần thứ 2, tháng 6/1976.

Trong khi chưa có lực lượng để làm nhiệm vụ vận chuyển trên biển chi viện cho miền nam, Bộ Chính trị chỉ thị cho Trung ương Cục miền nam chỉ đạo các tỉnh ven biển ở miền trung và Nam Bộ chủ động chuẩn bị bến, bãi và tổ chức đưa thuyền vượt biển ra miền bắc, vừa thăm dò, nắm tình hình địch, nghiên cứu tuyến vận chuyển trên biển, vừa nhận vũ khí để kịp thời cung cấp cho phong trào đấu tranh cách mạng ở miền nam đang phát triển.

Từ giữa năm 1961 đến giữa năm 1962, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền nam Việt Nam ở các tỉnh Bến Tre, Cà Mau, Trà Vinh và Bà Rịa đã cử 5 thuyền gỗ từ miền nam bí mật ra bắc để báo cáo tình hình, xin tiếp tế vũ khí và sau đó trực tiếp vận chuyển vũ khí cũng như dẫn đường cho các tàu tiếp tế giả dạng tàu đánh cá từ bắc vào nam.

Những chuyến thuyền từ Nam Bộ vượt biển ra bắc thành công là cơ sở quan trọng để xúc tiến việc thành lập đoàn vận tải thủy tiếp tế vũ khí cho miền nam. Ngày 23/10/1961, Bộ Tổng Tư lệnh ra Quyết định số 97/QP, thành lập Đoàn 759 vận tải thủy, đồng chí Trung tá Đoàn Hồng Phước làm Đoàn trưởng. Lực lượng ban đầu chỉ vỏn vẹn 38 cán bộ, chiến sĩ, trong đó có 20 đồng chí thuộc các thuyền của Bến Tre, Trà Vinh và Liên khu 5 vừa điều ra, với nhiệm vụ vô cùng khó khăn là sử dụng thuyền gỗ giả dạng tàu cá để vận chuyển vũ khí tiếp tế cho chiến trường miền nam bằng đường biển.

Bản hùng ca trên biển của Hải quân nhân dân Việt Nam ảnh 4

Đoàn tàu chở quân ra giải phóng Trường Sa tháng 4/1975.

Quyết định thành lập Đoàn 759 thể hiện tầm nhìn chiến lược và sáng tạo của Bộ Chính trị mà trực tiếp là Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh. Sự ra đời của Đoàn 759 đánh dấu mốc lịch sử quan trọng, mở ra bước phát triển mới của tuyến đường vận tải chiến lược trên biển chi viện cho chiến trường miền nam. Ngày 23/10 trở thành Ngày truyền thống của Đoàn 759 trước đây, Lữ đoàn 125, Vùng 2 Hải quân ngày nay, đồng thời là Ngày mở đường Hồ Chí Minh trên biển.

Rút kinh nghiệm thất bại từ các chuyến trước, Đoàn 759 quyết định để thuyền “Bạc Liêu” đi chuyến trinh sát, mở đường từ bắc vào nam. Đêm 10/4/1962, thuyền rời cửa Nhật Lệ (Quảng Bình) đi về hướng nam; đến 10 giờ đêm 18/4/1962 cập vào Vàm Lũng, huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau. Sau thời gian nghiên cứu, khảo sát bến, thuyền Bạc Liêu tiếp tục quay trở ra miền bắc; chuyến đi trinh sát, mở đường từ bắc vào nam đã thành công.

Trung tuần tháng 8/1962, Quân ủy Trung ương thông qua Nghị quyết “Mở đường vận chuyển chiến lược trên biển”, Đoàn 759 bước vào giai đoạn mới. Tháng 8/1962, Đoàn 759 nhận bàn giao 4 tàu gỗ từ Xưởng đóng tàu I (Hải Phòng) và tiếp nhận bổ sung cán bộ. Đêm 11/10/1962, chiếc tàu gỗ đầu tiên chở 30 tấn vũ khí đã rời bến Đồ Sơn (Hải Phòng) lên đường đi Cà Mau do đồng chí Lê Văn Một làm Thuyền trưởng, đồng chí Bông Văn Dĩa làm Chính trị viên tàu cùng 11 thủy thủ. Ngày 16/10, tàu vào bến Vàm Lũng, tỉnh Cà Mau, 30 tấn vũ khí từ hậu phương miền bắc đã được chiến trường miền nam tiếp nhận an toàn.

Kể từ đó, các chuyến tàu lần lượt rời bến miền bắc, vượt lênh đênh trên biển, hàng ngàn cây số vào miền nam. Để bảo đảm bí mật cho tuyến vận tải đặc biệt, tàu của Đoàn 759 đều cải hoán thành tàu đánh cá, không có số hiệu cố định, xen kẽ, trà trộn vào những đoàn tàu đánh cá của ngư dân địa phương trên biển. Và tên gọi “Đoàn tàu không số” ra đời từ đó.

Chỉ trong 2 tháng, 4 chuyến tàu thành công đã vận chuyển 111 tấn vũ khí cho Khu 9 an toàn, đây là một thắng lợi lớn, góp phần củng cố niềm tin và quyết tâm của quân dân miền nam trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.

Bản hùng ca trên biển của Hải quân nhân dân Việt Nam ảnh 6

Cán bộ, chiến sĩ Đoàn 125 đón lẵng hoa của Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng xuân 1969.

Khi tuyến đường vận tải biển được khai thông, những tấn vũ khí đầu tiên đến với lực lượng vũ trang Cà Mau (10/1962), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi điện biểu dương khen ngợi, đồng thời nhắc nhở cán bộ, chiến sĩ Đoàn 759 hãy nhanh chóng rút kinh nghiệm, tiếp tục vận chuyển nhanh hơn nữa, nhiều hơn nữa vũ khí cho đồng bào miền nam giết giặc.

Để vận chuyển bằng đường biển bảo đảm an toàn trong điều kiện thời tiết xấu nhất, Quân ủy Trung ương trang bị cho Đoàn 759 loại tàu vỏ sắt trọng tải từ 50 tấn đến 100 tấn. Ngày 17/3/1963, chiếc tàu vỏ sắt đầu tiên do đồng chí Đinh Đạt làm thuyền trưởng, đồng chí Nguyễn Văn Tiến làm chính trị viên chở 44 tấn vũ khí lên đường vào Trà Vinh an toàn.

Xưởng đóng tàu III tiếp tục cho hạ thủy thêm 5 chiếc nữa. Nhờ tổ chức tốt, kỷ luật nghiêm, ý thức trách nhiệm cao, tinh thần vững vàng và trình độ chuyên môn giỏi, những chuyến đi của Đoàn đều hoàn thành tốt nhiệm vụ và giữ được bí mật. Chỉ trong vòng 1 năm, Đoàn 759 đã thực hiện 29 chuyến vào Nam Bộ, vận chuyển 1.430 tấn vũ khí cho chiến trường, đạt hệ số vận chuyển cao.

Bản hùng ca trên biển của Hải quân nhân dân Việt Nam ảnh 7

Đại tướng Võ Nguyên Giáp đến thăm và nói chuyện với cán bộ chiến sĩ Đoàn 125 năm 1970.

Phát huy kết quả vận chuyển bằng đường biển, Bộ Quốc phòng chỉ thị cho Khu 7 mở bến đón tàu, để vận chuyển vũ khí từ miền bắc vào thẳng chiến trường Đông Nam Bộ.

Đoàn 759 được lệnh chuẩn bị một tàu chở vũ khí đột phá mở đường mới vào bến Bà Rịa. Đêm 26/9/1963, chiếc tàu gỗ mang số hiệu 41 do đồng chí Lê Văn Một làm Thuyền trưởng, đồng chí Đặng Văn Thanh là Chính trị viên tàu cùng 11 thuỷ thủ, chở 18 tấn vũ khí xuất phát tại cảng Bính Động (Hải Phòng) vào Bà Rịa thành công, chi viện vũ khí kịp thời cho Khu 7.

Tháng 8/1963, Đoàn 759 được chuyển về trực thuộc Cục Hải quân, đến 29/01/1964, đổi phiên hiệu thành Đoàn 125 trực thuộc Bộ Tư lệnh Hải quân. Dưới sự lãnh đạo và chỉ đạo trực tiếp của Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Hải quân, Đoàn 125 đã khẩn trương củng cố tổ chức và ổn định mọi mặt.

Từ năm 1962 đến hết năm 1964, Đoàn 125 đã có 17 tàu sắt, 3 tàu gỗ, tổ chức 79 chuyến vận chuyển vũ khí trang bị và cán bộ trung, cao cấp của Đảng và Quân đội vào miền nam. Số vũ khí, trang bị mà đơn vị vận chuyển lên đến hơn 4.000 tấn cho các địa phương như Bạc Liêu, Cà Mau, Bến Tre , Trà Vinh, Bà Rịa, Phú Yên, Bình Định...

Bản hùng ca trên biển của Hải quân nhân dân Việt Nam ảnh 9

Đồng chí Nguyễn Thị Định, Phó Tư lệnh Quân giải phóng miền nam Việt Nam đến thăm đoàn 125 năm 1969.

Số vũ khí đã đến được với các chiến trường khốc liệt nhất ở miền nam rất kịp thời, trực tiếp góp phần cùng các lực lượng vũ trang giành nhiều thắng lợi oanh liệt như chiến thắng Ấp Bắc, Đầm Dơi, Cái Nước, Chà Là, Vạn Tường, Ba Gia, Bình Giã... làm thất bại về căn bản chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ - ngụy trên chiến trường miền nam.

Từ năm 1964 trở đi, ta tiếp tục nghiên cứu mở rộng tuyến vận tải trên biển vào Khu 5, với nhiều bến mới tại Phú Yên, Bình Định, Quảng Ngãi, Quảng Nam an toàn. Nhiều chuyến đi ta chọn thời tiết xấu nhất để vượt sóng gió và sự tuần tra, kiểm soát gắt gao của địch, có chuyến bị địch phát hiện, cán bộ chiến sĩ trên tàu đã anh dũng chiến đấu và đốt cháy tàu để xóa dấu vết.

Con đường vận chuyển chiến lược trên biển không còn giữ được bí mật, địch tăng cường tuần tiễu, phong tỏa và kiểm soát chặt chẽ. Việc vận chuyển vũ khí, hàng hóa quân sự chi viện cho chiến trường miền nam bằng đường biển gặp muôn vàn khó khăn, Quân ủy Trung ương quyết định tạm ngừng việc vận chuyển bằng đường biển vào miền nam để nghiên cứu tìm phương thức vận chuyển mới, phù hợp với tình hình.

Bản hùng ca trên biển của Hải quân nhân dân Việt Nam ảnh 10

Biên đội tàu Hải quân Việt Nam luôn phát huy truyền thống anh hùng, sẵn sàng chiến đấu trong mọi tình huống.

Từ năm 1965 đến 1972, cán bộ chiến sĩ Đoàn 125 vượt qua khó khăn, thương vong, tàu địch bố phòng, kiểm soát gắt gao, ta cho tàu vòng ra xa bờ, qua nhiều vùng biển lạ, nguy hiểm tiếp tục vận chuyển chi viện cho chiến trường, góp phần đánh thắng chiến lược “Chiến tranh cục bộ” và “Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ.

Cán bộ, chiến sĩ Đoàn 125 phải đối mặt với những thử thách gay go, ác liệt. Trong đội ngũ trung kiên của Đoàn, xuất hiện nhiều tấm gương hy sinh anh dũng, nhiều con tàu ra đi không trở lại, nhiều đồng chí, đồng đội đã vĩnh viễn yên nghỉ nơi biển cả mênh mông.

Con đường vận chuyển trên biển trở thành một kỳ tích, huyền thoại, góp phần cùng quân và dân miền nam đánh thắng chiến lược “Chiến tranh cục bộ” và “Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ.

Giai đoạn 1973-1975, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới, Đoàn 125 tiếp tục củng cố tổ chức, xây dựng lực lượng, thành lập thêm tiểu đoàn, tiếp nhận tàu mới, tăng cường huấn luyện nâng cao trình độ mọi mặt và rèn luyện ý chí chiến đấu cho cán bộ, chiến sĩ, tiếp tục tổ chức hàng ngàn chuyến tàu vận chuyển vũ khí, máy móc, phương tiện chiến đấu hạng nặng, chở cán bộ, thương bệnh binh, nhân dân miền nam ra bắc học tập, điều trị.

Bản hùng ca trên biển của Hải quân nhân dân Việt Nam ảnh 11

Cán bộ, chiến sĩ tàu C43 sau chuyến chở vũ khí vào Trà Vinh an toàn trở về miền bắc năm 1963.

Ngày 4/4/1975, nhận nhiệm vụ giải phóng quần đảo Trường Sa, Đoàn 125 nhanh chóng thành lập một biên đội gồm 3 tàu, chở Đoàn 126 Đặc công Hải quân và một bộ phận của Tiểu đoàn 471 Đặc công Quân khu 5 ra giải phóng và tiếp quản các đảo Song Tử Tây, Sơn Ca, Nam Yết, Sinh Tồn và Trường Sa lớn... cùng một số đảo ở miền trung và vùng biển Tây Nam.

Đường Hồ Chí Minh trên biển đã hoàn thành trọn vẹn và đặc biệt xuất sắc nhiệm vụ chi viện chiến lược cho chiến trường miền nam. Từ năm 1961 đến năm 1975, cán bộ, chiến sĩ trên tuyến vận tải biển đã vượt qua muôn vàn gian khổ, khắc phục khó khăn, mưu trí, dũng cảm, táo bạo; vượt qua sự phong tỏa ác liệt, vây ráp gắt gao của kẻ thù, trực tiếp góp phần cùng toàn dân đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đến thắng lợi hoàn toàn.

Cùng với đường Hồ Chí Minh trên bộ, đường Hồ Chí Minh trên biển là một nét độc đáo, đặc sắc, sáng tạo của đường lối chiến tranh nhân dân, thể hiện tầm nhìn chiến lược của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Quân ủy Trung ương; trở thành biểu tượng tự hào của cả dân tộc Việt Nam, hiện thân của ý chí khát vọng độc lập, tự do và thống nhất đất nước; là trí tuệ, ý chí quyết chiến, quyết thắng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Bản hùng ca trên biển của Hải quân nhân dân Việt Nam ảnh 12

Hải quân Việt Nam viết tiếp bản hùng ca trên biển.

Đường Hồ Chí Minh trên biển đã trở thành một thiên anh hùng ca bất tử, một bộ phận quan trọng trong hệ thống vận tải quân sự chiến lược trong cuộc kháng chiến chống xâm lược, giải phóng đất nước, xây dựng nên truyền thống vẻ vang của lực lượng Hải quân nhân dân Việt Nam anh hùng.