<p>Giải pháp bảo đảm cung ứng đủ điện cho phát triển đất nước</p>

Bài 1: Bất cập trong quy hoạch và đầu tư cho điện

Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2006 - 2015, có xét đến năm 2025 (gọi tắt là Quy hoạch điện VI) được coi là cơ sở quan trọng để điều hành phát triển các dự án điện, nhằm thực hiện mục tiêu bảo đảm đủ điện năng, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, những năm gần đây vào mùa khô, khi thủy điện thiếu nước thì việc cung ứng điện luôn gặp khó khăn.

Ðáng chú ý trong năm 2010, ngay cả trong mùa mưa, điện vẫn thiếu. Việc thiếu điện tác động không nhỏ đến sản xuất và đời sống nhân dân, gây nhiều bức xúc trong dư luận xã hội. Tình trạng thiếu điện diễn ra triền miên cho thấy, vấn đề quy hoạch và đầu tư phát triển điện thời gian qua đã không đáp ứng được mục tiêu đề ra, bộc lộ nhiều bất cập, hạn chế.

Những bất cập

Phát triển điện năng là lĩnh vực hết sức quan trọng, được Ðảng và Nhà nước luôn coi là một trong những ưu tiên hàng đầu trong phát triển công nghiệp nước ta. Tháng 7-2007, Chính phủ đã phê duyệt Quy hoạch điện VI, trong đó đã dự báo nhu cầu phụ tải tăng với tốc độ 15 đến 17%/năm (phương án cơ sở), thậm chí chuẩn bị ứng phó với tốc độ tăng trưởng 20%/năm (phương án cao) và ghi rõ danh mục các dự án cần đầu tư từng thời kỳ.

Tuy nhiên, trong quy hoạch vẫn có vấn đề cơ cấu nguồn điện. Hệ thống nguồn điện phụ thuộc chủ yếu vào thủy điện, trong khi đó lại chưa lường trước những tác động của thời tiết, nhất là hiện tượng biến đổi khí hậu. Năm 1998 được coi là năm kiệt nước nhất, nhưng năm 2010, lượng nước thiếu hụt còn cao hơn nhiều,  công suất phát thủy điện chỉ đạt 65-70% và năm 2011 dự báo tình hình này còn nghiêm trọng hơn nữa. Theo Tập đoàn Ðiện lực Việt Nam (EVN), tính đến 31-12-2010, tổng lượng nước về các hồ thủy điện của cả nước hụt khoảng 12 tỷ m3 so với trung bình nhiều năm, khiến sản lượng thủy điện năm 2011 dự kiến thiếu hụt khoảng 3 tỷ kW giờ. Vì vậy, cần xem xét, tính toán tỷ trọng thủy điện trong cơ cấu nguồn điện một cách hợp lý trong quy hoạch phát triển điện sắp tới trong điều kiện biến đổi khí hậu ngày càng phức tạp.

Mặt khác, Quy hoạch điện VI cũng chưa chú trọng đúng mức vai trò của các nguồn năng lượng mới, chẳng hạn như điện gió. Hiện nước ta mới chỉ có một nhà máy điện gió duy nhất ở Tuy Phong (Bình Thuận) đang hoạt động do Công ty Cổ phần năng lượng tái tạo Việt Nam (REVN) làm chủ đầu tư giai đoạn 1 gồm 20 trụ tua-bin điện gió tổng công suất 30 MW, dự kiến trong tháng 2-2011 lắp đặt xong toàn bộ 20 trụ này; Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam tháng 11-2010 cũng đã khởi công xây dựng một nhà máy điện gió công suất 6 MW trên đảo Phú Quý (Bình Thuận). Trong khi đó, còn nhiều địa phương như Ninh Thuận, Phú Quốc, Côn Ðảo... có nhiều tiềm năng phát triển loại năng lượng sạch này.

Thực tế do việc thực hiện các dự án điện trong Quy hoạch VI không đúng tiến độ, (theo báo cáo, trong giai đoạn 2006-2010, mới chỉ thực hiện được khoảng 70% khối lượng các dự án nguồn và 60% khối lượng các dự án lưới), dẫn đến không đủ các nguồn điện để phát điện, nhất là trong các tháng mùa khô, khi các nhà máy thủy điện không có thể phát hết công suất do thiếu nước. Theo Bộ Công thương, việc dự báo nhu cầu điện tăng gấp hai lần so với tăng trưởng GDP mặc dù cao nhưng phù hợp với tình hình Việt Nam hiện nay. Trong khi đó, nhiều chuyên gia cho rằng, đây là điểm bất hợp lý, thể hiện hiệu quả sử dụng năng lượng ở nước ta còn thấp. Ở các nước trong khu vực, tăng trưởng GDP 1% thì điện chỉ tăng trưởng khoảng 1 đến 1,2%, hoặc cao lắm chỉ đến 1,5%.

Một điểm bất cập nữa là việc cân đối tài chính cho thực hiện các dự án chưa khả thi. Ước tính, mỗi năm EVN cần trung bình 4 tỷ USD để đầu tư xây mới các nhà máy điện là quá lớn, nền kinh tế không thể kham nổi. Việc huy động vốn lớn như vậy là rất khó khăn, vượt ngoài khả năng của EVN. Ðây cũng là một trong những điểm yếu về quy hoạch phát triển điện. Chính vì thế, tiến độ các quy hoạch đã được phê duyệt hầu như không thực hiện được.

Không đồng bộ giữa các quy hoạch

Quy hoạch điện được lập trên cơ sở các quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội, quy hoạch ngành của cả nước và các địa phương. Tuy nhiên các quy hoạch này thường xuyên điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung nên đã làm cho việc quản lý, thực hiện quy hoạch điện không còn chủ động được nữa, gây khó khăn cho việc bảo đảm cân đối cung cầu điện. Vụ trưởng Vụ Năng lượng (Bộ Công thương) Tạ Văn Hường cho rằng, ở thời điểm lập Quy hoạch điện VI, việc đàm phán mua than từ các nước là dễ dàng. Song, từ năm 2008, khủng hoảng năng lượng xảy ra nên nhiều nước đã ngừng bán than. Theo Phó Viện trưởng Viện Năng lượng, Bộ Công thương Nguyễn Anh Tuấn, Quy hoạch điện VI đã không đưa ra được những giải pháp cân đối nguồn than. Chẳng hạn như theo Quy hoạch điện VI, dự án Nhà máy nhiệt điện Duyên Hải 1 (Trà Vinh) và Nhà máy Nhiệt điện Vĩnh Tân được cân đối sử dụng nguồn than nhập khẩu. Tuy nhiên, nhà đầu tư đã không ký được hợp đồng mua than nhập khẩu nên cuối cùng phải quay lại sử dụng than trong nước, do đó phải điều chỉnh toàn bộ thiết kế kỹ thuật của nhà máy, dẫn đến tiến độ thực hiện dự án bị chậm.

Việc xây dựng và triển khai Quy hoạch điện VI cũng thiếu sự đồng bộ, gắn kết với các quy hoạch các ngành và địa phương. Việc lập quy hoạch cũng mới chỉ quan tâm đến tăng cung không chú ý kiểm soát nhu cầu. Gần đây, dư luận rất quan tâm đến việc thực hiện quy hoạch một số ngành khác đã phá vỡ quy hoạch của ngành điện. Ðiển hình là tình trạng cấp phép một loạt các dự án thép, xi-măng không có trong quy hoạch khiến cho tình trạng thiếu điện trở nên trầm trọng hơn, bởi đây là những hộ tiêu thụ điện năng lớn. Theo Hiệp hội Thép Việt Nam, trong gần hai năm qua, có tới hơn 30 dự án thép nằm ngoài quy hoạch được cấp phép với tổng công suất thiết kế lên tới hơn 60 triệu tấn/năm, vượt xa khả năng tiêu thụ trong nước. Trong khi đó, chỉ tính lượng tiêu hao điện cho sản xuất gang thép của những dự án đang hoạt động với tổng công suất lắp đặt 17,8 triệu tấn/năm thì năm 2010, con số tiêu hao điện là 2,69 tỷ kW giờ, chưa kể nếu hơn 30 dự án thép ngoài quy hoạch đi vào hoạt động thì lượng tiêu hao điện này sẽ còn gấp hai, ba lần. Phó Chủ tịch Hiệp hội Thép Việt Nam Nguyễn Tiến Nghi cho biết, chỉ tiêu tiêu hao năng lượng của nhiều nhà máy thép tại Việt Nam hiện vẫn còn cao so với các nước trên thế giới do chủ yếu sử dụng thiết bị, công nghệ lạc hậu.

Phó Tổng Giám đốc EVN Ðặng Hoàng An khẳng định, nếu không bảo đảm được tính đồng bộ của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội quốc gia và các khu vực, các tỉnh, thành phố, quy hoạch phát triển các ngành nghề, quy hoạch sử dụng đất của các địa phương với quy hoạch phát triển điện thì việc cung cấp điện sẽ gặp khó khăn do đặc thù của phát triển điện là phải tuân thủ quy hoạch được duyệt một cách chặt chẽ và cần thời gian thực hiện lâu hơn so với các công trình, dự án khác. Việc tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu phải điều chỉnh quy hoạch phát triển điện bảy lần trong vòng năm năm (từ năm 2006 đến nay) do phát triển các nhà máy thép là minh chứng rõ rệt về tính chưa đồng bộ này.

Thực hiện đầu tư các dự án điện chậm

Theo Quy hoạch điện VI giai đoạn 2006-2010, 25 công trình nguồn điện do EVN làm chủ đầu tư hoặc góp cổ phần phải hoàn thành có tổng công suất đến 7.730 MW. Tuy nhiên, tính đến hết năm 2010, EVN mới thực hiện hơn 81% kế hoạch nói trên. Tính riêng năm 2010, các nguồn điện của EVN và các đơn vị khác được đưa vào vận hành chỉ đạt chưa đến 70% tổng công suất theo quy hoạch đã được phê duyệt. Hầu hết các dự án nhiệt điện than chậm tiến độ một năm. Ðáng chú ý là cả hai tổ máy Nhà máy nhiệt điện (NMNÐ) Hải Phòng 1 bị chậm tiến độ 27 tháng: tổ máy 1 vận hành từ cuối năm 2009, phát lên lưới được 260 triệu kW giờ, sau đó bị sự cố phải dừng từ 16-7-2010, mãi đến tháng 10-2010 mới khôi phục vận hành nhưng chưa ổn định, chưa rõ thời điểm được cấp chứng chỉ vận hành thương mại. Trong khi đó tổ máy 2 mới hòa đồng bộ than giữa tháng 9-2010, quá trình chạy tin cậy chưa bắt đầu. NMNÐ Quảng Ninh 1 đã vận hành tổ máy 1 và 2 nhưng gặp liên tiếp sự cố, phải ngừng để sửa chữa. Còn NMNÐ Hải Phòng 2 và Quảng Ninh 2 theo kế hoạch phải hoàn thành trong năm 2009 và 2010 thì nay phải lùi sang năm 2011 do đều vướng mắc về hợp đồng tín dụng vay vốn với đối tác, dẫn đến khối lượng thực hiện được rất ít. Thậm chí, nhà thầu EPC Trung Quốc đang đề nghị chủ đầu tư hiệu chỉnh thời hạn hợp đồng và tính toán các ảnh hưởng giá hợp đồng EPC.

Tình hình thực hiện các dự án đầu tư của các DN ngoài EVN cũng không khả quan hơn. Giai đoạn 2006-2010, các đơn vị như: Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam (PVN); Tập đoàn Công nghiệp Than-Khoáng sản Việt Nam (TKV); Sông Ðà, một số công ty cổ phần điện... phải hoàn thành hơn 8.050 MW công suất, tuy nhiên, dự kiến hết 2010 chỉ thực hiện hơn 3.810 MW, đạt 47,4% kế hoạch. Chính việc không thực hiện đúng tiến độ các dự án nhiệt điện than đã góp phần đáng kể đến tình trạng thiếu điện, cắt điện luân phiên, ảnh hưởng lớn tới sản xuất và đời sống sinh hoạt của người dân.

Lưới điện truyền tải cũng đang gặp khó khăn khi chỉ đáp ứng được công suất nguồn điện, chưa có dự phòng. Thậm chí, năng lực truyền tải khó đáp ứng được yêu cầu tốc độ tăng thêm của công suất nguồn điện từ 3.000 đến 4.000 MW/năm, dẫn đến mất cân đối giữa nguồn và lưới. Nhiều thời điểm, toàn bộ hệ thống truyền tải vận hành trong tình trạng đầy tải và quá tải cục bộ. Tình trạng này có khả năng trầm trọng hơn trong những tháng đầu năm 2011.

Hiện nay, những dự án nhiệt điện than (các nhà thầu nước ngoài đang đảm nhận đến 90% tổng số dự án), nhà thầu làm từ 'A đến Z' kể cả lao động đơn giản. Sở dĩ có tình trạng này là do họ đều bỏ thầu giá thấp, lại có lợi thế là nhà cung cấp tín dụng ưu đãi. Tuy vậy, việc nhà thầu EPC bỏ thầu giá thấp trong quá trình triển khai phát sinh nhiều vấn đề như giá nguyên vật liệu, vật tư biến động, thời gian thi công kéo dài ngoài dự kiến... Các nhà thầu trong nước chỉ có thể tham gia vào một số ít các hạng mục. Ðối với dự án NMNÐ Quảng Ninh 1 và Hải Phòng 1, có nhiều nguyên nhân như nhà thầu không bố trí đủ nhân lực thi công; thiết bị hỏng phải chờ nhập khẩu nên thay thế chậm; thời gian chạy thử kéo dài, khối lượng nhiên liệu chạy thử vượt xa dự kiến trong hợp đồng... Lãnh đạo Chính phủ và nhiều đoàn công tác của Bộ Công thương và các đơn vị liên quan đã phải xuống hiện trường tìm giải pháp khắc phục.

Theo Viện trưởng Viện Năng lượng Phạm Khánh Toàn, các nhà thầu nước ngoài đang thực hiện các dự án điện tại Việt Nam chưa có nhiều kinh nghiệm thực hiện hợp đồng EPC: thiết kế của nhà thầu phải sửa đổi nhiều, không đúng tiêu chuẩn, không phù hợp nên chậm được phê duyệt, có dự án đến 400 yêu cầu thay đổi thiết kế so với hợp đồng; công nghệ xây lắp không tiên tiến; công tác mua sắm sai lệch so với hợp đồng về nhà cấp hàng, nhà thầu phụ, đặc tính kỹ thuật của hàng hóa. Nhiều khi nhà thầu không thông báo cho chủ đầu tư. TS Nguyễn Minh Phong kiến nghị: Cần tránh 'bẫy giá rẻ' do các chủ thầu nước ngoài đưa ra, không nên coi giá rẻ là chỉ tiêu duy nhất khi chọn thầu các dự án.

Bộ Công thương đang chỉ đạo xây dựng Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2015-2020 có xét tới 2030 (Tổng sơ đồ VII). Với nhu cầu điện tăng 14-16%/năm, công suất phải tăng thêm mỗi năm trong giai đoạn 2011-2015 khoảng 4.000 MW, vốn đầu tư nguồn và lưới điện cần 48,2 tỷ USD, chiếm 19% GDP. Với tốc độ tăng trưởng phụ tải và tình hình thời tiết khô hạn như hiện nay, dự báo năm 2011, nước ta sẽ thiếu hơn 2 tỷ kW giờ điện, thậm chí các năm sau còn lớn hơn nữa nếu tình hình đầu tư nguồn điện không được cải thiện.

(Còn nữa)

Nhóm phóng viên kinh tế

Có thể bạn quan tâm