Y Phương với tập thơ song ngữ Vũ khúc Tày

Hội Nhà văn Việt Nam đã trao giải thưởng năm 2016 cho tập thơ song ngữ Việt - Tày "Vũ khúc Tày" của Y Phương và tập thơ "Tổ quốc nhìn từ biển" của Nguyễn Việt Chiến. “Vũ khúc Tày” viết về tình yêu, nhân tình thế thái, vẻ đẹp của văn hóa truyền thống trong một thế giới hiện đại.

Y Phương với tập thơ song ngữ Vũ khúc Tày

Sau tập thơ song ngữ đầu tiên “Thất tàng lồm” (Ngược gió, 2006), năm 2015 Y Phương mới công bố “Tủng Tày” (Vũ khúc Tày) - tập thơ song ngữ Việt - Tày thứ hai, do Nhà xuất bản Đại học Thái Nguyên ấn hành.

Nếu trong các tập thơ trước, Y Phương mới rón rén thả thơ tình thì đến “Vũ khúc Tày”, nhà thơ Tày đã tuyên ngôn: “Nếu không yêu và làm thơ thì tôi chả còn biết làm gì nữa. Hãy yêu đi bạn ơi. Cuộc sống không có tình yêu khác nào khu vườn không có ánh nắng. Biết rằng mình đang yêu và đang được yêu làm cho cuộc sống ý nghĩa, ấm áp và giàu có - điều mà ngoài tình yêu ra, không có gì có thể làm được…”. Thế mới biết “tình yêu không tuổi, ngàn đời vẫn xanh”. Có lẽ vì thế mà bạn đọc không lạ khi Y Phương tâm đắc câu ca: “Người ta có thể no đủ vật chất. Nhưng lại luôn đói khát tình yêu”… Y Phương quan niệm “Thơ cũng giống như tình yêu. Không có sự run rẩy thì không có thơ”. Ông lý giải thời gian 12 tháng vận chuyển “bướm ong còn làm bạn với hoa” huống chi con người lại sống thiếu tình yêu con người. Với Y Phương, thơ và tình yêu luôn song hành, cộng hưởng để tình yêu thăng hoa cho thơ và đến lượt thơ kỳ diệu hóa tình yêu trở thành một loài “Hoa bất tử”. Có bài thơ, Y Phương cất lên như mệnh lệnh thức: “Hãy yêu thương nhau, xin đừng nhìn như vỏ trấu” (Hỡi con người). Có lúc Y Phương đi tìm định nghĩa “Yêu nghĩa là sống Đẹp” (Đôi chân), “Cho rất nhiều không hề đòi lại - Đó là tình yêu” (Sống)… Thơ Y Phương đốt lòng cho nỗi nhớ khắc khoải khi yêu: “Ta nhớ em đến chín - Ta nhớ em đến sống - Ta quên mình đang thai”... để rồi chỉ còn biết “đổi nỗi nhớ em” và “Tiếp tục đếm tóc chờ” (Gửi người vào chốn rừng sâu). Mượn “lá nhớ nhau” để gửi mức độ nhớ đến “Xanh dồn lên mặt” (Nhớ) của người… Lại có lúc với Y Phương tình yêu đi liền với giận hờn, ghen tuông đủ đầy cung bậc “Cơn giận ngoi từ đất - Bò lên bàn chân - Leo đến đầu gối - Trườn lên eo lưng - Ngậm vào bầu ngực - Giận dừng lại - Rồi bùi ngùi thương” (Giận thương); “Tôi có một quả ớt xanh - Không thấy chín bao giờ” (Vô đề)...

Người phụ nữ là hình tượng chủ đạo làm nên “Vũ khúc Tày”. Một cách tự nhiên hình thành một phong cách thơ, Y Phương luôn tôn trọng và đề cao phụ nữ: “Người đàn ông tựa lưng vào người đàn bà - Người đàn bà tựa lưng vào biển cả” (Tựa). Điều đó khởi nguồn từ tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt và truyền thống coi trọng mẹ sinh sản của người Tày. Nữ thần trông coi việc sinh sản được gọi là Mẻ Bjoóc (Mẹ Hoa). Mẹ Hoa ở trên trời mới là mẹ đẻ còn mẹ ở trần gian chỉ là người thừa lệnh Mẹ Hoa sinh ra con. Mẹ Hoa được thờ cúng gắn với nghi lễ của thời kỳ sinh nở. Từ truyền thống đó, cộng với tư duy nông nghiệp đề cao phụ nữ, người Tày đã xây dựng Mẹ Trăng. Trăng là một hiện tượng thiên nhiên trong quan niệm dân gian là chủ về nước - thái âm. Từ gợi ý đó, Y Phương đã khéo léo đưa vào thơ bản sắc văn hóa Tày qua Lễ hội Nàng Hai: “Ta múa điệu Nàng Hai - Ta hát điệu Hà Lều - Cong vênh trời và đất” (Vũ khúc Tày). Nương theo văn hóa Tày “đã yêu nhau thì xé thịt cho nhau ăn cũng không tiếc” để rồi ông khẳng định một tình yêu dữ dội, mãnh liệt “Ta xé thịt bắp đùi - Ta dâng lên em yêu” (Xé). Dựa trên văn hóa dân gian Tày “chân gác chân”, ông so sánh với hiện tại để cuối cùng muốn gửi tới bạn trẻ một niềm mong “Hãy yêu nhau đi - Yêu như ngày mai trời sập - Đừng đắn đo gì hết - Nào chân ơi chân - Hãy gác mau lên đi”. Câu thơ hối thúc bởi trái tim nhà thơ đầy dự cảm, lo âu cho thời gian, cho đời người hữu hạn.

Người phụ nữ mang gương mặt tình yêu, đó là EM “Em là củi - Đun đời anh chín thơm - Em là nước - Tắm đời anh sạch thơm - Em là cơm” (Cơm), “Em là lúa… là bắp… là sao… là muối mỡ cười khóc… là em” (Em là…); là MÌNH: “Anh yêu mình giàn giụa” (Sinh), “Miệng mình cười - Tươi như trăng lá lúa” (Giấc ngủ trẻ thơ), là tiếng gọi “mình ơi” của người đàn ông đã “đi gần mút cuộc đời - Hai tiếng mình ơi sao xa vời - Hai tiếng mình ơi sao thổn thức” (Mình ơi).

Người Tày có một nền văn nghệ cổ truyền phong phú với nhiều thể loại, thơ, ca, múa, nhạc. Tục ngữ, ca dao chiếm một khối lượng đáng kể. Các điệu dân ca phổ biến nhất là hát lượn, hát đám cưới, ru con... Gắn bó với quê hương, dân tộc, hơn ai hết, Y Phương có nhiều lợi thế khi biết phát huy, sử dụng vốn tri thức văn hóa của người Tày, từ phong tục, tập quán, cách cảm, cách nghĩ… Song không quá lạm dụng, mà hơn thế, ông biết xử lý tài tình, khéo léo để những vốn đó trở thành đắc dụng trong những câu thơ sâu sắc và tinh tế.

Trân trọng, nâng niu tinh hoa văn hóa của dân tộc, cùng quan niệm “vạn vật hữu linh”, ông vận dụng khéo léo tục gọi vía đầy chất nhân văn của người Tày khi “vía tôi lang thang quên lối về” để cuối cùng hối thúc một thông điệp tình yêu “Về mau mà yêu nhau kẻo vía già” (Gọi vía).

Y Phương luôn ý thức bảo tồn văn hóa bằng tiếng mẹ đẻ. Ông tâm sự: “Người ta phải yêu tiếng mẹ đẻ cái đã. Yêu hết mình mới có thơ ca. Yêu từ tim gan bên trong xương thịt mình. Khi con tim không rung, đôi tay không buồn, cầm cây bút sao nổi. Cầm bút không nổi lấy đâu ra thơ ca”. “Vũ khúc Tày” đã góp phần hoàn chỉnh sự nghiệp văn chương của Y Phương, cho thấy một tài năng đa dạng, sáng tạo bền bỉ và mang đến cho bạn đọc một vẻ đẹp mới từ những góc nhìn mới về văn hóa dân tộc và nhà thơ Hứa Vĩnh Sước -

Y Phương đã và sẽ tiếp tục chinh phục những người yêu thơ, yêu nền văn hóa Tày rực rỡ, độc đáo, tràn đầy sức sống một cách tự nhiên.

TS LÊ THỊ BÍCH HỒNG

Có thể bạn quan tâm