Cùng dự có lãnh đạo các Ban, bộ, ngành, các tỉnh trong Vùng trung du và miền núi phía bắc.
Tại hội nghị, Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho biết, sau gần 2 năm thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế-xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh Vùng trung du và miền núi phía bắc đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, đến nay, đã hoàn thành 3 dự án, đang triển khai 15 dự án trên tổng số 33 dự án trọng điểm của Vùng.
Tốc độ tăng trưởng GRDP của Vùng năm 2023 đạt 6,53%, cao hơn so 5 vùng còn lại và bình quân cả nước, trong đó, Bắc Giang có mức tăng 13,5% (cao nhất cả nước), một số địa phương có mức tăng khá như: Tuyên Quang (7,46%), Phú Thọ (7,45%). Quy mô GRDP đạt 896.000 tỷ đồng. Thu ngân sách nhà nước đạt 88.000 tỷ đồng, vượt 17% so dự toán. Kim ngạch xuất, nhập khẩu đạt khoảng 67 tỷ USD, tăng 39% so thực hiện năm 2022.
Năm 2023 các tỉnh trong vùng đã thu hút 143 dự án FDI mới với tổng số vốn đăng ký khoảng 1,9 tỷ USD; toàn vùng có 23 khu công nghiệp đang hoạt động, tỷ lệ lấp đầy đạt 65%, cao hơn bình quân cả nước (54%); có hơn 5,4 triệu ha rừng, tỷ lệ che phủ đạt 54%, cao hơn bình quân cả nước (là 42%)…
Đời sống nhân dân, an sinh xã hội, xây dựng nông thôn mới tiếp tục được quan tâm; văn hóa-xã hội tiếp tục phát triển và nâng cao; chất lượng giáo dục, khám, chữa bệnh cho nhân dân từng bước được cải thiện, quốc phòng, an ninh được bảo đảm; công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị luôn được quan tâm...
Hội nghị cũng đã công bố quy hoạch Vùng trung du và miền núi phía bắc gồm toàn bộ lãnh thổ đất liền của 14 tỉnh: Cao Bằng, Điện Biên, Bắc Giang, Bắc Kạn, Hà Giang, Hòa Bình, Lạng Sơn, Lai Châu, Lào Cai, Phú Thọ, Sơn La, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Yên Bái.
Theo quy hoạch, Vùng trung du và miền núi phía bắc là cửa ngõ phía tây và phía bắc của quốc gia với Trung Quốc, Lào và các nước ASEAN. Vùng được coi là “phên dậu” và “lá phổi” của Tổ quốc, có vai trò quyết định đối với an ninh nguồn nước và môi trường sinh thái, là nơi bảo vệ đa dạng sinh học và rừng đầu nguồn của cả vùng Bắc Bộ.
Phó Thủ tướng Trần Lưu Quang phát biểu chỉ đạo tại hội nghị. |
Quy hoạch đặt mục tiêu phấn đấu đến năm 2030, vùng trung du và miền núi phía bắc trở thành vùng có thu nhập trung bình cao, một số tỉnh nằm trong nhóm các tỉnh phát triển khá của cả nước, tiệm cận với ngưỡng thu nhập cao. Đến năm 2050, vùng trung du và miền núi phía bắc sẽ là hình mẫu phát triển xanh của cả nước, có tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân đạt khoảng 7,5-8%/năm, thu nhập bình quân đầu người khoảng 15.000-18.000 USD.
Vùng trung du và miền núi phía bắc được tổ chức thành 3 tiểu vùng, 5 hành lang kinh tế, 3 vành đai phát triển và 1 khu động lực. Vùng tập trung phát triển hạ tầng kết nối vùng, ưu tiên các kết nối kết nối vùng với Thủ đô Hà Nội, vùng đồng bằng sông Hồng, tiểu vùng Bắc Trung Bộ và quốc tế; ưu tiên nâng cấp các tuyến đường sắt liên vận với Trung Quốc qua cửa khẩu Lào Cai và cửa khẩu Hữu Nghị; đẩy nhanh tiến độ khởi công xây dựng các tuyến đường sắt tốc độ cao Lạng Sơn-Hà Nội, Lào Cai-Hà Nội-Hải Phòng-Quảng Ninh.
Vùng sẽ đẩy nhanh tiến độ sớm khởi công xây dựng các tuyến đường sắt tốc độ cao Lạng Sơn-Hà Nội, Lào Cai-Hà Nội-Hải Phòng-Quảng Ninh.
Cùng với đó, thực hiện đầu tư tuyến cao tốc Đồng Đăng (Lạng Sơn)-Trà Lĩnh (Cao Bằng); triển khai xây dựng tuyến cao tốc Sơn La-Điện Biên, Bắc Kạn-Cao Bằng; xây dựng tuyến cao tốc kết nối Sơn La với đường cao tốc Hà Nội-Lào Cai; nâng cấp cảng hàng không Điện Biên thành cảng hàng không quốc tế sau năm 2030.
Về lĩnh vực công nghiệp, đặt mục tiêu xây dựng Thái Nguyên, Lào Cai trở thành trung tâm luyện kim; Thái Nguyên, Phú Thọ, Bắc Giang trở thành trung tâm cơ khí, điện tử có trình độ cao; Bắc Giang trở thành trung tâm sản xuất chất bán dẫn, công nghiệp hỗ trợ; các sản phẩm hóa chất cơ bản, hóa dược chủ yếu tập trung tại Phú Thọ, Lào Cai và Bắc Giang.
Toàn cảnh hội nghị công bố quy hoạch Vùng trung du miền núi phía bắc. |
Về nông nghiệp, hình thành các vùng chuyên canh sản xuất nông nghiệp tập trung với quy mô thích hợp gắn với chế biến, thị trường trong và ngoài nước; đưa Thái Nguyên trở thành trung tâm chế biến chè; Lai Châu trở thành trung tâm chế biến mắc ca; vùng cây ăn quả, cây đặc sản chủ yếu tại Sơn La, Bắc Giang, Tuyên Quang, Hòa Bình, Phú Thọ; vùng quế, hồi chủ yếu tại Lạng Sơn, Yên Bái, Lào Cai và Cao Bằng…
Tại hội nghị, các đại biểu đã tập trung thảo luận làm rõ những kết quả và khó khăn, mong muốn trong thời gian tới Chính phủ bố trí nguồn lực để đầu tư kết cấu hạ tầng liên vùng và nội vùng; nghiên cứu cơ chế chính sách đặc thù vùng; phân cấp, phân quyền cho địa phương, chủ động huy động nguồn lực đầu tư.
Nhiều đại biểu cũng cho rằng, các địa phương cần đẩy mạnh nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là đào tạo nghề về các ngành nghề có lợi thế và thế mạnh đáp ứng như cầu nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp và thu hút đầu tư; bên cạnh đó, các địa phương cũng cần đẩy mạnh liên kết vùng, đẩy mạnh cải hành chính, nâng cao các chỉ số năng lực cạnh tranh…
Phát biểu ý kiến tại hội nghị, Phó Thủ tướng Trần Lưu Quang cho rằng, mặc dù còn gặp nhiều khó khăn, song các địa phương trong vùng đã vượt khó, cố gắng khai thác các lợi thế của địa phương để đi lên. Một số địa phương còn có cách làm mới, sáng tạo, cần nhân rộng.
Theo Phó Thủ tướng, việc liên kết vùng đã có từ lâu nhưng chưa phát huy được hiệu quả, bởi khu vực này còn yếu về nguồn lực, yếu về hạ tầng, yếu về liên kết. Để kéo khu vực này lên, Phó Thủ tướng yêu cầu bộ, ngành, các địa phương trong vùng cần tập trung triển khai hiệu quả các chương trình, nhiệm vụ, đề án đã đề ra. Trong đó các bộ, ngành Trung ương cần “trả nợ” các đề án còn thiếu; tổng hợp các báo cáo trình Chính phủ; khẩn trương tổng hợp các ý kiến phát biểu của các đại biểu để trình Chính phủ…
Các địa phương trong vùng cũng cần đưa ra các chính sách phù hợp tình hình thực tế tại địa phương; triển khai hiệu quả các chương trình, đề án của Hội đồng điều phối tại tỉnh; đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng, nhất là mặt bằng tại các dự án hạ tầng giao thông; có phương án ứng phó với biến đổi khí hậu và triển khai hiệu quả công tác chuyển đổi số…