Xây dựng hệ thống y tế bền vững và linh hoạt

Để đạt các mục tiêu của Chiến lược quốc gia bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân giai đoạn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, đòi hỏi hệ thống y tế với nền tảng bền vững đồng thời cần linh hoạt, sáng tạo và liên tục đổi mới nhằm tăng cường khả năng thích ứng và sức chống chịu với những thách thức mới.
0:00 / 0:00
0:00
Bác sĩ Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức thăm khám cho bệnh nhân 105 tuổi.
Bác sĩ Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức thăm khám cho bệnh nhân 105 tuổi.

Theo PGS, TS Phan Lê Thu Hằng, Phó Vụ trưởng Kế hoạch tài chính (Bộ Y tế), công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân đang gặp phải những thách thức liên quan tới sự gia tăng nhu cầu chăm sóc sức khỏe và kỳ vọng về chất lượng dịch vụ y tế; sự thay đổi mô hình bệnh tật với sự gia tăng của các bệnh không lây nhiễm; tốc độ già hóa dân số; mối đe dọa ngày càng tăng của các bệnh dịch mới nổi; tác động bất lợi của biến đổi khí hậu và công nghiệp hóa cùng xu hướng chi phí y tế ngày càng tăng cao...

Xét chung trên bối cảnh thế giới đang bước vào kỳ nguyên VUCA với các đặc tính: biến động (Volatility); không chắc chắn (Uncertainty); phức tạp (Complexity) và mơ hồ (Ambiguity). Điều này đòi hỏi hệ thống y tế phải có nền tảng bền vững (về cấu trúc, nhân lực, kỹ thuật và tài chính) đồng thời cần linh hoạt, sáng tạo và liên tục đổi mới nhằm tăng cường khả năng thích ứng và sức chống chịu với những thách thức mới.

Tại nước ta, Chiến lược quốc gia bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân giai đoạn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 được Thủ tướng phê duyệt ngày 23/1/2024 đã kế thừa những định hướng lâu dài mang tính nền tảng đã xác định trong nhiều năm qua, đồng thời bổ sung những định hướng phát triển mới phù hợp với yêu cầu bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới.

Chiến lược được xây dựng dựa trên 5 quan điểm cơ bản. Thứ nhất, về phát triển hệ thống y tế phải kế thừa định hướng công bằng, hiệu quả và phát triển nhưng bổ sung thêm một số định hướng mới (như tính minh bạch và trách nhiệm giải trình, khả năng chống chịu và duy trì bền vững), để thích ứng linh hoạt và hiệu quả trong giai đoạn mới (có nhiều yếu tố biến động phức tạp cũng như có nguy cơ về các cú sốc ảnh hưởng tới an ninh y tế). Đồng thời xác định rõ sự phát triển và đổi mới hệ thống y tế phải nhằm hướng tới mục tiêu mong muốn là bao phủ chăm sóc sức khỏe toàn dân.

Thứ hai, chăm sóc sức khỏe phải dựa trên nhu cầu và cần lấy người dân làm trung tâm, giúp mọi người dân được tiếp cận các dịch vụ và sản phẩm y tế có chất lượng với chi phí hợp lý. Thứ ba về phương thức chủ chốt để bảo đảm chăm sóc sức khỏe hiệu quả bao gồm phòng bệnh hơn chữa bệnh; chăm sóc sức khỏe từ sớm ngay tại cơ sở; ứng phó kịp thời với đại dịch và các tình huống khẩn cấp về an ninh y tế; và khẳng định vai trò chủ chốt của Nhà nước trong việc bảo đảm các dịch vụ y tế cơ bản. Thứ tư cần chú trọng toàn diện các mặt của công tác dân số (quy mô, cơ cấu, phân bố và chất lượng dân số), tận dụng tối đa cơ hội (cơ cấu dân số vàng) và thích ứng hiệu quả với thách thức (già hóa dân số).

Thứ năm, bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe là nghĩa vụ, trách nhiệm của mỗi người dân, của hệ thống chính trị và toàn xã hội, với nòng cốt là ngành y tế. Bên cạnh đó, cần phát huy vai trò của khu vực ngoài công lập trong chăm sóc sức khỏe. Quan điểm này hoàn toàn phù hợp với xu hướng có tính chất toàn cầu hiện nay về trao quyền cho cá nhân và cộng đồng nhằm tối ưu hóa sức khỏe, khuyến khích sự phối hợp liên ngành và sự tham gia rộng rãi của các bên liên quan trong chăm sóc sức khỏe.

Chiến lược xác định rõ trong giai đoạn đến năm 2030, chúng ta cần phấn đấu bảo đảm mọi người dân được hưởng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe có chất lượng, được sống trong cộng đồng an toàn, phát triển tốt về thể chất và tinh thần, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống, chất lượng nguồn nhân lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Định hướng đến năm 2045, đã xác định hai mục tiêu quan trọng, đó là cần xây dựng hệ thống y tế phát triển hiện đại, hội nhập quốc tế, nâng cao chất lượng dịch vụ y tế ngang tầm các nước tiên tiến trong khu vực và đạt bao phủ chăm sóc sức khỏe toàn dân.

Để đạt được các mục tiêu này, Chiến lược cũng đã xác định một số nội dung ưu tiên, xoay quanh sáu cấu phần quan trọng của hệ thống y tế: cung ứng dịch vụ y tế; nhân lực; hệ thống công nghệ thông tin; trang thiết bị, thuốc, vắc-xin; tài chính; quản trị hệ thống y tế.

Theo đó, bảo đảm khả năng duy trì bền vững và tính linh hoạt (phù hợp với sự thay đổi nhu cầu chăm sóc sức khỏe) của toàn bộ các dịch vụ chăm sóc sức khỏe thiết yếu (nâng cao sức khỏe, dự phòng, điều trị, phục hồi chức năng, chăm sóc giảm nhẹ) theo suốt vòng đời. Tăng cường công tác phòng chống dịch bệnh, nhất là dịch bệnh truyền nhiễm mới xuất hiện; bảo đảm an ninh y tế, ứng phó kịp thời với biến đổi khí hậu, các tình huống khẩn cấp về y tế công cộng.

Từng bước kiểm soát các yếu tố nguy cơ gây bệnh, nâng cao năng lực quản lý môi trường y tế, các bệnh không lây nhiễm, bệnh nghề nghiệp, tai nạn thương tích và nâng cao sức khỏe người dân. Nâng cao chất lượng, hiệu quả của mạng lưới cung ứng dịch vụ y tế từ trung ương đến cơ sở để đáp ứng với sự thay đổi mô hình bệnh tật, hội nhập quốc tế và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0; xây dựng hệ thống chăm sóc sức khỏe ban đầu vững mạnh; thu hẹp khoảng cách về bệnh tật, tử vong giữa các vùng, miền, các nhóm dân tộc.

Phát triển y tế ngoài công lập, tăng cường phối hợp công-tư trong cung ứng dịch vụ y tế. Duy trì vững chắc mức sinh thay thế, giảm chênh lệch mức sinh giữa các vùng, đối tượng; đưa tỷ số giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên; tận dụng lợi thế cơ cấu dân số vàng; thích ứng với già hóa dân số; phân bố dân số hợp lý và nâng cao chất lượng dân số. Chú trọng chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em, người cao tuổi và các đối tượng ưu tiên.

Phát triển nguồn nhân lực y tế cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu, đặc biệt nhân lực cho y tế cơ sở, khu vực nông thôn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, biên giới, biển đảo; tiến tới đạt cơ cấu hợp lý giữa bác sĩ và điều dưỡng; bảo đảm cân đối giữa đào tạo và sử dụng nhân lực y tế.

Chú trọng công tác nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ cao trong dự phòng, phát hiện, chẩn đoán và điều trị bệnh tật, nghiên cứu và phát triển dược, thiết bị y tế; đẩy mạnh thực hiện chuyển đổi số, phát huy vai trò công nghệ thông tin trong quản lý, điều hành và hoạt động chuyên môn y tế.

Bảo đảm việc tiếp cận và tính sẵn có của thuốc, vắc-xin, sinh phẩm, vật tư, thiết bị y tế có chất lượng với giá hợp lý, đáp ứng nhu cầu phòng bệnh, chữa bệnh của nhân dân; ưu tiên phát triển công nghiệp dược, dược liệu và thiết bị y tế trong nước. Việc kiểm soát an toàn thực phẩm dựa trên đánh giá nguy cơ, sản xuất, kinh doanh theo chuỗi, truy xuất nguồn gốc thực phẩm.

Tăng tỷ trọng chi tiêu công cho y tế, nâng cao hiệu quả trong phân bổ và sử dụng ngân sách và các nguồn lực cho y tế, đạt mục tiêu bảo hiểm y tế toàn dân. Ưu tiên ngân sách nhà nước cho y tế dự phòng, y tế cơ sở, y tế vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, biên giới, biển đảo, bãi ngang ven biển, các khu vực khó khăn.

Một lĩnh vực cần đặc biệt quan tâm và thực thi là đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật, chính sách y tế, bảo đảm chất lượng, đầy đủ, đồng bộ; năng lực quản trị hệ thống y tế được nâng cao theo hướng hiệu lực, hiệu quả, minh bạch, hiện đại, hội nhập.