Kết cấu hạ tầng kinh tế được tập trung đầu tư phát triển. Một số đoạn đường đã và đang được nâng cấp như quốc lộ 1A đoạn từ TP Hồ Chí Minh đi Cần Thơ, các tuyến quốc lộ 30, 50, 61, 63, N2... Một số dự án viện trợ của nước ngoài về phát triển giao thông được triển khai như Dự án phát triển cầu đường giao thông nông thôn ở chín tỉnh đồng bằng sông Cửu Long (340 tỷ đồng) do Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) hỗ trợ; Dự án xây dựng 37 cầu giao thông nông thôn vùng đồng bằng sông Cửu Long (gần 500 tỷ đồng) do tổ chức JICA của Nhật Bản viện trợ không hoàn lại; Chương trình xóa cầu khỉ ở đồng bằng sông Cửu Long của Ðoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh cũng góp phần giải quyết khó khăn cho giao thông đường bộ ở đồng bằng sông Cửu Long. Hệ thống giao thông đường thủy nội địa truyền thống được tiếp tục duy trì.
Có 30 công trình thủy lợi đã được khởi công và hoàn thành, 65 công trình khác đang thi công đáp ứng một phần nhu cầu thoát lũ, tưới tiêu nước và phục vụ chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Việc xây dựng cụm, tuyến dân cư nhằm góp phần ổn định và phát triển kinh tế - xã hội cho dân cư vùng ngập lũ được tích cực triển khai tổ chức thực hiện. Các tỉnh vùng ngập lũ như Long An, Ðồng Tháp, An Giang, Kiên Giang, Cần Thơ, Vĩnh Long, Tiền Giang đã xây dựng xong 372 cụm, tuyến và 48 bờ bao. Toàn vùng đã bình xét được 40.223 hộ đúng đối tượng và trong đó 10.726 hộ đã được nhận nhà ở.
Kinh tế nông, lâm, ngư nghiệp phát triển chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu kinh tế vùng đồng bằng sông Cửu Long. Sản xuất lúa vẫn tiếp tục khẳng định là một ngành sản xuất hàng hóa quan trọng và ngày càng có sức cạnh tranh cao. Cây lúa tuy giảm diện tích, nhưng đang được các bộ, ngành, địa phương và nông dân mạnh dạn đưa nhanh các giống mới như IR64, OM1490, OSMC2000, ST3, v.v. cho năng suất và chất lượng cao vừa bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, vừa đạt sản lượng 17,5 triệu tấn và xuất khẩu khoảng 4,2 triệu tấn gạo, cao nhất từ trước đến nay.
Ðàn bò tăng nhanh làm cho cơ cấu chăn nuôi tăng đáng kể cả về quy mô, lẫn chất lượng sản phẩm đáp ứng nhu cầu thị trường. Sản lượng thịt hơi năm 2003 đạt khoảng 475.000 tấn tăng 20% so với năm 2002.
Rừng chủ yếu là rừng ngập mặn ven biển và rừng tràm vùng lũ là những loại rừng đặc dụng giữ cân bằng sinh thái được bảo vệ, tôn tạo và phát triển, hạn chế nạn chặt phá, đốt rừng.
Nghề nuôi trồng thủy sản đã có bước phát triển khá toàn diện, với tốc độ nhanh, trở thành ngành kinh tế mũi nhọn trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông - lâm - ngư nghiệp. Toàn vùng có khoảng 600 nghìn ha cây trồng hiệu quả kinh tế thấp (chiếm khoảng 20% diện tích đất nông, lâm, ngư nghiệp) được chuyển sang nuôi trồng thủy sản, vừa thâm canh, bán thâm canh, xen canh và quảng canh. Sản lượng nuôi trồng và đánh bắt thủy, hải sản khoảng 1,5 triệu tấn. Các dịch vụ tôm, cá giống và thức ăn, mua bán sản phẩm hàng hóa phát triển. Giống cá tra và cá basa đã có thể chủ động tại chỗ, giống tôm có khoảng 2.000 trại, đáp ứng được khoảng 50% nhu cầu.
Công nghiệp chế biến lương thực và thủy sản ngày càng phát triển, thu hút nhiều thành phần kinh tế tham gia. Toàn vùng hiện có 119 doanh nghiệp chế biến thủy sản công suất 3.200 tấn/ ngày. Ðã quy hoạch được 51 khu, cụm công nghiệp tập trung với tổng diện tích 12.024 ha, thu hút được 153 dự án với số vốn đăng ký 1.235 triệu USD và 1.334 tỷ đồng, giải quyết việc làm cho hơn 22.000 lao động. Khu công nghiệp khí - điện - đạm Cà Mau đã khởi công và đang tiến hành xây dựng. Nhiều tỉnh, thành phố như Cần Thơ, Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Bạc Liêu, Sóc Trăng... tăng cường liên kết với TP Hồ Chí Minh, các tỉnh Ðông Nam Bộ và một số tổng công ty của bộ, ngành Trung ương để phát triển các doanh nghiệp hoặc chi nhánh sản xuất, kinh doanh tại từng địa phương.
Dịch vụ vận tải đường bộ đã tăng dần đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và đi lại của nhân dân. Dịch vụ bưu chính, viễn thông tương đối phát triển và hình thành khoảng 2.700 điểm bưu điện - văn hóa xã, 55 nghìn thuê bao in-tơ-nét đều khắp toàn vùng, góp phần cung cấp thông tin liên lạc giữa các cấp và các ngành. Dịch vụ tài chính, ngân hàng bước đầu có khả năng điều tiết và cung ứng về cơ bản nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế - xã hội đồng bằng sông Cửu Long.
Du lịch sinh thái được chú ý đầu tư tôn tạo và ngày càng có nhiều hoạt động hấp dẫn thu hút khách trong và ngoài nước. Nhiều trung tâm thương mại và chợ được xây dựng ở khắp nơi. Vai trò tiểu thương ngày càng được khẳng định là cầu nối quan trọng giữa các doanh nghiệp và người nông dân trực tiếp sản xuất. Các tỉnh có đường biên giới với Cam-pu-chia như Long An, Ðồng Tháp, An Giang, Kiên Giang đã chú ý nhiều đến khai thác lợi thế vùng biên để phát triển các cửa khẩu, chợ vùng biên. Một số nơi còn hình thành khu kinh tế cửa khẩu, làm cho các hoạt động dịch vụ, xúc tiến thương mại ngày càng phát triển.
Thu ngân sách tăng bình quân khoảng 10 - 15%, bước đầu nuôi dưỡng và phát triển nguồn thu, tình trạng thất thu giảm nhiều. Ðã có bốn tỉnh, thành phố là Cần Thơ, Tiền Giang, Vĩnh Long, Long An tự cân đối được thu chi ngân sách.
Tuy nhiên, hiệu quả bền vững và sức cạnh tranh của nền kinh tế toàn vùng chưa cao, sự phát triển kinh tế chưa tương xứng với tiềm năng của vùng. Nhiều địa phương do quá nôn nóng chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, đã đầu tư rất nhiều công sức và vốn cho phát triển diện tích nuôi trồng thủy sản, nhưng thiếu quy hoạch tập trung, đồng bộ (dân một số nơi tự ý đưa nước mặn vào đồng lúa để nuôi tôm trong khi chưa có hệ thống thủy lợi cho nuôi trồng thủy sản), lực lượng khuyến ngư quá mỏng, không đủ sức phát hiện, ngăn ngừa mầm bệnh từ con giống hoặc từ môi trường nước, dẫn đến hiệu quả thấp, gây ra nhiều hậu quả không tốt cho sản xuất nông nghiệp và bảo vệ môi trường.
Ðiển hình vụ vừa qua có 2.000 ha nuôi tôm sú ở tỉnh Cà Mau bị chết, hơn 60% số tôm sú giống ở tỉnh Trà Vinh bị hao hụt trong quá trình nuôi. Suất đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - kỹ thuật thường cao hơn mức bình quân chung cả nước do nền móng địa chất yếu và không có sẵn nguyên vật liệu tại chỗ. Công nghiệp chậm phát triển vì sức hút kém và nguồn nhân lực có kỹ thuật không nhiều.
Ðể thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội bằng và vượt mức bình quân chung cả nước, dần bắt kịp các chỉ tiêu cơ bản của các tỉnh miền Ðông Nam Bộ, trở thành vùng kinh tế trọng điểm của cả nước, các ngành và các địa phương cần tập trung chỉ đạo để sớm hoàn thiện và ban hành "Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm an ninh, quốc phòng đồng bằng sông Cửu Long thời kỳ 2001 - 2010" cũng như các quy hoạch ngành, quy hoạch địa phương phù hợp tinh thần Nghị quyết 21 - NQ/T.Ư.
Bảo đảm phân công, phân cấp cụ thể, bước đi rõ ràng, có cơ chế hoạt động mang tính chất vùng kinh tế nhằm huy động cao nhất các nguồn lực, trước hết là nội lực trong phối hợp và chuyên môn hóa giữa ngành với địa phương, địa phương với địa phương, ngành với ngành, ngành và địa phương với vùng trong phát triển kinh tế - xã hội, tập trung một số lĩnh vực chính như công nghiệp cơ khí, công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm, hạ tầng giao thông, thủy lợi và giống cây, con cho năng suất, chất lượng ổn định.
Có cơ chế, chính sách đặc thù cho phát triển giáo dục và dạy nghề, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, xây dựng hệ thống chiến lược vùng về cung cấp cơ hội học tập suốt đời thông qua các tín chỉ giáo dục không chính quy cho người lao động có trình độ học vấn thấp và mù chữ đi đôi với động viên khuyến khích các cháu trong độ tuổi đi học được đến trường, bảo đảm chất lượng giáo dục phổ thông, trước hết là phổ cập giáo dục tiểu học, tiến tới trung học cơ sở, từng bước phổ cập trung học phổ thông ở những thành phố, thị xã, thị trấn.
Gắn nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội với lãnh đạo công tác xóa đói, giảm nghèo, coi đây là nhiệm vụ thường xuyên phải quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy địa phương. Thực hiện tốt chính sách dân tộc của Ðảng để đồng bào các dân tộc thiểu số ở đồng bằng sông Cửu Long vươn lên hội nhập ngày càng chặt chẽ vào cuộc sống cộng đồng và xứng đáng là những thành viên quan trọng trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam.
Những thành tựu kinh tế trong năm đầu thực hiện Nghị quyết 21 - NQ/T.Ư ở đồng bằng sông Cửu Long là tiền đề rất quan trọng góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội vùng này theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tin rằng, trong những năm tiếp theo, các cấp ủy Ðảng, chính quyền và nhân dân các địa phương đồng bằng sông Cửu Long sẽ đạt nhiều thành tựu hơn nữa trên các mặt kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng,...